Sầu riêng đang trở thành một trong những ngành hàng xuất khẩu chủ lực của nông nghiệp Việt Nam, các yêu cầu về chất lượng, an toàn thực phẩm và truy xuất nguồn gốc từ các thị trường nhập khẩu ngày càng được siết chặt. Thực tế cho thấy, chỉ một sơ suất nhỏ trong quá trình canh tác cũng có thể khiến cả lô hàng bị trả về, kéo theo nguy cơ mất mã vùng trồng, mã cơ sở đóng gói và làm tổn hại nghiêm trọng đến uy tín ngành hàng.
TS Trần Thị Mỹ Hạnh, Trưởng Bộ môn Bảo vệ thực vật – Viện Cây ăn quả miền Nam. Ảnh: Minh Đảm.
Theo TS Trần Thị Mỹ Hạnh, Trưởng Bộ môn Bảo vệ thực vật - Viện Cây ăn quả miền Nam, trong bối cảnh diện tích sầu riêng tăng nhanh và thị trường xuất khẩu liên tục nâng cao hàng rào kỹ thuật, việc kiểm soát chất lượng không thể làm theo cách riêng lẻ, manh mún mà phải được thực hiện đồng bộ, xuyên suốt từ vườn trồng đến khâu thu hoạch, sơ chế và xuất khẩu.
“Chỉ cần một khâu bị buông lỏng, nguy cơ bị trả hàng hoặc bị áp dụng kiểm tra 100% lô hàng là rất lớn, ảnh hưởng trực tiếp đến khả năng cạnh tranh của sầu riêng Việt Nam”, bà Hạnh nhấn mạnh.
Kiểm soát sinh vật gây hại - yêu cầu bắt buộc
Một trong những nguyên nhân chính khiến nhiều lô sầu riêng bị cảnh báo thời gian qua là sự xuất hiện của các đối tượng dịch hại thuộc diện kiểm dịch thực vật, đặc biệt là rệp sáp và ruồi đục trái. Đây là những sinh vật gây hại không chỉ làm giảm chất lượng trái mà còn nằm trong danh sách phải kiểm dịch nghiêm ngặt từ các thị trường nhập khẩu, nhất là Trung Quốc.
Theo TS Trần Thị Mỹ Hạnh, từ năm 2024 đến nay, nhiều lô sầu riêng của Việt Nam bị phát hiện có rệp sáp như Pseudococcus jackbeardsleyi, Planococcus minor, Dysmicoccus neobrevipes hoặc ruồi đục trái Bactrocera correcta. Đáng lưu ý, phần lớn các trường hợp này đều xuất phát từ việc giám sát sinh vật gây hại tại vườn trồng chưa chặt chẽ, ghi chép chưa đầy đủ theo yêu cầu của tiêu chuẩn quốc tế ISPM 6.
Để khắc phục tình trạng này, các chuyên gia khuyến cáo cần tăng cường theo dõi sinh vật gây hại thường xuyên, áp dụng đồng bộ các biện pháp quản lý dịch hại tổng hợp (IPM). Trong đó, việc treo bẫy thức ăn, bẫy dính vàng, bẫy pheromone để giám sát ruồi đục trái cần được thực hiện đúng mật độ, quản lý kiến để hạn chế sự lây lan của rệp sáp, cắt tỉa cành hợp lý, khống chế chiều cao cây từ 5 - 6m, không để tán cây giao nhau nhằm giảm nơi cư trú của dịch hại.
Bên cạnh đó, cần tạo điều kiện cho các loài thiên địch như bọ rùa, bọ cánh lưới, ong ký sinh phát triển; ưu tiên sử dụng các chế phẩm sinh học như nấm Paecilomyces, Metarhizium kết hợp dầu thực vật để quản lý rệp sáp theo hướng bền vững, giảm phụ thuộc vào thuốc hóa học.
Cần thường xuyên áp dụng các biện pháp quản lý dịch hại tổng hợp trên cây sầu riêng. Ảnh: Minh Đảm.
Quản lý chặt dư lượng thuốc BVTV và kim loại nặng
Không chỉ dừng ở kiểm dịch thực vật, các thị trường nhập khẩu hiện nay còn đặc biệt quan tâm đến dư lượng thuốc bảo vệ thực vật và kim loại nặng, nhất là Cadimi (Cd). Đây là vấn đề mới có thể ảnh hưởng trực tiếp đến khả năng xuất khẩu sầu riêng trong thời gian tới.
Theo TS Trần Thị Mỹ Hạnh, nhiều trường hợp dư lượng thuốc BVTV vượt ngưỡng cho phép xuất phát từ việc không tuân thủ thời gian cách ly trước thu hoạch, sử dụng thuốc không đúng đối tượng cây trồng, phun với nồng độ cao hoặc tần suất dày. Để hạn chế rủi ro, cần ưu tiên thuốc có nguồn gốc sinh học, sử dụng đúng liều lượng, đúng thời điểm dịch hại mẫn cảm nhất và tuyệt đối tuân thủ thời gian cách ly.
Đối với Cadimi, sầu riêng là cây có khả năng hấp thu và tích lũy Cd nếu đất, nước tưới hoặc phân bón bị ô nhiễm. Trong khi đó, nhiều thị trường lớn như Trung Quốc, EU, Nhật Bản, Hàn Quốc đang siết chặt giới hạn Cadimi trong trái cây. Riêng thị trường Trung Quốc yêu cầu hàm lượng Cadimi trong sầu riêng phải dưới 0,05mg/kg và tất cả lô hàng đều phải được kiểm tra tại phòng thử nghiệm được hai bên công nhận.
Sản xuất sầu riêng bền vững không chỉ là điều kiện sống còn để ngành hàng này giữ vững và mở rộng thị trường xuất khẩu. Ảnh: Minh Đảm.
Nếu không kiểm soát tốt Cadimi, hệ lụy không chỉ là bị trả hàng mà còn có nguy cơ mất mã vùng trồng, uy tín vùng sầu riêng suy giảm và khó phục hồi trong thời gian ngắn. Do đó, việc kiểm tra định kỳ đất, nước, lá và trái, lập bản đồ vùng rủi ro Cadimi để khoanh vùng quản lý là yêu cầu cấp thiết.
Về giải pháp kỹ thuật, các chuyên gia khuyến nghị bón vôi để nâng pH đất lên khoảng 6,0 nhằm giảm khả năng hấp thu Cadimi, bón phân cân đối NPK, tăng cường phân hữu cơ hoai mục, than sinh học để hấp phụ kim loại nặng trong đất. Ngoài ra, có thể trồng xen các loài cây có khả năng hấp thu Cadimi như cải xanh, bạc hà, rau muống nước hoặc trồng cỏ vetiver ở ranh vườn, mép mương để hạn chế Cd di chuyển vào vùng rễ sầu riêng.
Từ thực tiễn nghiên cứu và các mô hình trình diễn, TS Trần Thị Mỹ Hạnh khẳng định sản xuất sầu riêng bền vững không chỉ là yêu cầu kỹ thuật mà đã trở thành điều kiện sống còn để ngành hàng này giữ vững và mở rộng thị trường xuất khẩu. Việc kiểm soát sinh vật gây hại, dư lượng thuốc BVTV và kim loại nặng cần được thực hiện ngay từ vườn trồng với sự vào cuộc đồng bộ của nông dân, hợp tác xã, doanh nghiệp và cơ quan chuyên môn.
"Trong bối cảnh thị trường ngày càng khắt khe, mỗi vùng trồng cần tuân thủ quy trình kỹ thuật, ghi chép đầy đủ và minh bạch hồ sơ cho trái sầu riêng. Chỉ khi kiểm soát tốt chất lượng từ gốc, ngành hàng sầu riêng mới có thể phát triển ổn định, bền vững và giữ vững vị thế trên thị trường quốc tế”, TS Trần Thị Mỹ Hạnh nhấn mạnh.





























