Ở ấp An Thạnh, xã An Trường (Vĩnh Long), hỏi chuyện làm lúa, bà con thường kể bằng cái thở dài quen thuộc. Nỗi lo nhiều năm qua không chỉ nằm ở thời tiết thất thường hay giá vật tư tăng mà còn ở tình trạng ngộ độc hữu cơ - điều mà người dân nơi đây nói rằng “đụng vào là dễ mất trắng”.
Ông Dương Văn Cao, Chi hội trưởng Chi hội Nông dân ấp An Thạch nhớ rất rõ những mùa mưa bất chợt khiến rơm rạ đang phơi giữa chừng bị ngập nước. Khi rơm ướt, bà con không thể chở về làm thức ăn cho trâu bò, buộc phải vùi xuống ruộng, gây ra hiện tượng ngộ độc hữu cơ, cây lúa yếu rễ, vàng lá, năng suất giảm.
Ông Dương Văn Cao, Chi hội trưởng Chi hội Hội Nông dân ấp An Thạch kể lại những khó khăn khi chưa dùng chế phẩm vi sinh xử lý rơm rạ. Ảnh: SOS môi trường.
“Ngày xưa rơm mà ngập nước là coi như xong, vụ sau phải bỏ phân nhiều lắm", ông Cao kể. Thay đổi chỉ bắt đầu khi mô hình xử lý rơm rạ bằng chế phẩm vi sinh được triển khai, ông Cao là một trong những hộ đầu tiên tham gia. Bản thân ông và 56 hộ dân cùng thử nghiệm mô hình này vì không còn nhiều lựa chọn khác trước áp lực giá phân bón và dịch bệnh.
Những vụ đầu không hề dễ dàng, bà con loay hoay với cách dùng chế phẩm mới, không biết pha sao cho đúng vì lúc đó chế phẩm còn đặc và khó phun bằng máy. Chỉ khi công thức được điều chỉnh để loãng hơn, phù hợp với điều kiện canh tác, người dân mới thấy được những khác biệt đầu tiên.
Đất bắt đầu “thở" được sau khi rơm rạ không còn phân hủy dở dang dưới bùn. Từng hộ đối chiếu ruộng của mình với vụ trước và thấy những hiệu quả rõ rệt: Cây lúa mạnh rễ hơn, lá đứng hơn, sâu bệnh ít tấn công hơn, đặc biệt tình trạng lúa ma giảm mạnh.
Sau vài vụ áp dụng xử lý rơm rạ bằng chế phẩm vi sinh, điều làm ông Cao vui hơn cả là chi phí giảm mà đất lại khỏe. Ông phấn khởi: “Giờ xử lý bằng vi sinh, đất khỏe lên thấy rõ, lúa đứng bông đều, chi phí giảm. Bà con mừng lắm!”
Một trong những ruộng cho kết quả rõ rệt nhất là của ông Nguyễn Văn Tư tại xã Văn Trường (Vĩnh Long). Nhiều năm quen dùng phân hóa học, ông Tư bước vào vụ đầu áp dụng xử lý rơm rạ bằng chế phẩm sinh học với nhiều băn khoăn. Nhưng đến vụ thứ hai, sự thay đổi hiện lên trên từng thửa ruộng, ruộng giữ nước tốt hơn, đất tơi hơn, rễ lúa khỏe hơn, lúa ma - điều khiến ông nhiều năm mất ăn mất ngủ đã giảm mạnh. Quan trọng hơn, so với việc bón phân hoá học như trước đây, chi phí đầu tư giảm đáng kể, trong khi năng suất vẫn ổn định.
Ông Nguyễn Văn Tư tại xã Văn Trường, Vĩnh Long cho biết, sử dụng chế phẩm vi sinh xử lý rơm rạ giúp ruộng giữ nước tốt hơn, đất tơi hơn, rễ lúa khỏe hơn. Ảnh: SOS môi trường.
Không cần vận động nhiều, bà con trong ấp truyền miệng với nhau. Người này thấy ruộng người kia xanh hơn, ít bệnh hơn, mọi người trong ấp mạnh dạn làm theo, tích cực sử dụng chế phẩm vi sinh cho ruộng lúa của mình, đồng thời lan toả mô hình sang các ruộng lân cận.
Ông Trần Văn Phong, Trưởng ấp An Thạnh (xã An Trường) cho rằng sự thay đổi không chỉ nằm ở kỹ thuật mà còn ở tư duy canh tác của người dân. Nhiều năm trước, phần lớn bà sạ lúa dày, sử dụng nhiều phân bón hoá học và thuốc bảo vệ thực vật để “giữ ruộng” dẫn đến đất bạc màu, khi ngập nước dễ bị bệnh đạo ôn, năng suất thiếu ổn định. Nhiều năm liền, tình trạng mạnh ai nấy làm, gieo sạ lệch thời điểm cũng khiến thu hoạch gặp trở ngại và giá bán bấp bênh.
Theo ông Phong, điều thuyết phục người dân nhất không phải hội thảo, không phải khuyến nông mà là thực tế: “Quan trọng nhất là bà con thấy hiệu quả, thấy lúa khỏe hơn, đất bớt độc, giảm phân, giảm thuốc. Cái đó mới thuyết phục, chứ nói hay mấy mà không thấy hiệu quả thì bà con không theo...”.
Ông Trần Văn Phong, Trưởng ấp An Thạnh, xã An Trường nhấn mạnh hiệu quả sử dụng chế phẩm vi sinh xử lý rơm rạ. Ảnh: SOS môi trường.
Ông Phong cũng lưu ý: Dùng vi sinh phải từ 2 - 3 vụ trở lên mới thấy rõ tác động tới đất và hệ vi sinh vật. Tuy nhiên, người dân trong ấp đều thống nhất rằng đây là hướng đi bền vững, phù hợp với yêu cầu giảm phát thải, bảo vệ môi trường, nâng cao chất lượng hạt gạo.
Từ vài chục hộ ban đầu, mô hình đã mở rộng lên hàng chục hecta, nhiều hộ đã biết cách tận dụng rơm rạ và giảm phụ thuộc vào hóa chất. Bà con vốn quen với phân, thuốc hóa học và cách làm cũ nay đã mạnh dạn chuyển đổi. Điều này không chỉ xử lý vấn đề rơm rạ sau thu hoạch mà còn xây dựng một hệ sinh thái sản xuất lúa ít phụ thuộc hóa chất, tận dụng phụ phẩm, giảm ô nhiễm môi trường, tăng sức khỏe đất và sức đề kháng cho cây trồng. Đây cũng là yêu cầu cốt lõi của chiến lược nông nghiệp tuần hoàn, nông nghiệp xanh mà Việt Nam đang hướng tới.
Hiện mô hình tại xã An Trường đã giúp xử lý hoàn toàn rơm rạ, không còn tình trạng đốt rơm truyền thống gây ô nhiễm không khí, gây nguy hại đến sức khoẻ. Người dân đều phấn khởi khi thấy ruộng sạch, đất tơi, lúa đều, sâu bệnh giảm.
Mô hình đang dần được nhân rộng đến các địa phương lân cận. Trong bối cảnh sản xuất lúa chịu áp lực từ biến đổi khí hậu, tiêu chuẩn xuất khẩu ngày càng cao và yêu cầu giảm phát thải, câu chuyện của xã An Trường cho thấy khi nông dân được hỗ trợ đúng cách, họ có thể thích ứng và chuyển đổi, góp phần xây dựng nền nông nghiệp chất lượng, xanh và sạch hơn.





























