Từ các địa phương như Phú Thọ, Ninh Bình... đến khu vực ĐBSCL, canh tác lúa phát thải thấp đang từng bước chuyển từ chủ trương thành hành động, cụ thể trên đồng ruộng. Các giải pháp như tưới ướt khô xen kẽ, quản lý rơm rạ, giảm phân đạm đã được triển khai. Những thay đổi không chỉ nằm ở kỹ thuật sản xuất mà còn ở cách nghĩ, cách làm của người nông dân trong bối cảnh nông nghiệp phải thích ứng với biến đổi khí hậu và yêu cầu phát triển bền vững.
Năm 2023 đánh dấu mốc quan trọng khi “Đề án phát triển bền vững 1 triệu ha chuyên canh lúa chất lượng cao và phát thải thấp gắn với tăng trưởng xanh vùng ĐBSCL đến năm 2030” được triển khai.
TS. Vũ Duy Hoàng, Phó Giám đốc Trung tâm Nông nghiệp hữu cơ, Khoa Nông học, Học viện Nông nghiệp Việt Nam chia sẻ, để người nông dân chủ động chuyển sang trồng lúa phát thải thấp, phải là sự kết hợp của kỹ thuật - thị trường - và tư duy sản xuất. Ảnh: Duy Học.
Đến năm 2025 cả nước đã hình thành 11 mô hình thí điểm tạo tiền đề cho quá trình nhân rộng. Tham gia mô hình, nông dân buộc phải thay đổi thói quen sản xuất truyền thống nghỉ chép đầy đủ nhật ký đồng ruộng, tham dự các lớp tập huấn kỹ thuật, tuân thủ nghiêm ngặt quy trình canh tác và tuyệt đối không đốt dơm dạ sau thu hạch.
Không chỉ dừng lại ở tập huấn lý thuyết, hàng tuần cán bộ kỹ thuật trực tiếp xuống đồng cùng nông dân theo dõi quá trình sinh trường của cây lúa, kịp thời hướng dẫn biện pháp phòng trừ sâu ảnh, điều chỉnh lượng phân bón nước tưới, cũng như cập nhật chính sách hỗ trợ. Nhờ đó, người dân từng bước làm chủ kỹ thuật, giảm chi phí đầu vào, tăng hiệu quả sản xuất và hạn chế tác động tới môi trường.
Song song với đó, các mô hình canh tác lúa bền vững cũng được khởi động từ năm 2023 nhằm phục vụ trực tiếp cho Đề án 1 triệu ha lúa phát thải thấp vùng ĐBSCL.
Đến nay, hơn 4.500 nông dân đã được chuyển giao công nghệ canh tác tiên tiến. Thực tế sản xuất chứng minh năng suất, chất lượng của lúa được cải thiện rõ rệt, hiệu quả sử dụng tài nguyên nâng cao, lượng phát thải được kiểm soát. Từ dù sẽ là nền tảng cho chuyển đổi xanh, kỹ thuật là công cụ và thị trường chính là động lực thúc đẩy nông dân gắn bó lâu dài với con đường sản xuất lúa phát thải thấp.
Từ những kết quả tích cực bước đầu, các mô hình tiếp tục được nhân rộng, góp phần nâng cao năng lực cho nhà nông, từng bước hiện thực hóa mục tiêu phát triển nông nghiệp bền vững gắn với chiến lược tăng trưởng xanh của quốc gia.
TS. Vũ Duy Hoàng, Phó Giám đốc Trung tâm Nông nghiệp hữu cơ, Khoa Nông học, Học viện Nông nghiệp Việt Nam cho hay, để người nông dân chủ động chuyển sang trồng lúa phát thải thấp, không có một yếu tố đơn lẻ nào đủ sức tạo ra thay đổi; đó phải là sự kết hợp của kỹ thuật - thị trường - và tư duy sản xuất. Nhưng nếu phải chọn yếu tố mang tính quyết định, tôi cho rằng thay đổi tư duy vẫn là quan trọng nhất.
Bởi khi người nông dân hiểu rõ lợi ích, thấy rằng các biện pháp như tưới ướt - khô xen kẽ, quản lý rơm rạ hay bón phân hợp lý giúp giảm chi phí, tiết kiệm nước, tăng hiệu quả và đồng thời bảo vệ môi trường, họ sẽ chủ động tiếp nhận kỹ thuật mới trong giảm phát thải và ứng phó biến đổi khí hậu, đây là trách nhiệm chung của toàn xã hội, không của riêng ai.
Canh tác lúa theo hướng phát thải thấp đang từng bước chuyển từ chủ trương thành hành động, cụ thể trên đồng ruộng. Ảnh: Hồng Thắm.
Tuy nhiên, để sự thay đổi tư duy trở thành hành động thực tế, cần có hai điều kiện hỗ trợ. Thứ nhất, kỹ thuật phải đơn giản, dễ áp dụng và phù hợp với điều kiện ruộng đồng từng địa phương.
Thứ hai, thị trường và doanh nghiệp phải đồng hành, tạo ra chuỗi giá trị, cơ chế tiêu thụ và cả khuyến khích tài chính. Chẳng hạn lúa gạo phát thải thấp có được trả giá cao hơn không? Tín chỉ carbon có thể trở thành nguồn thu bổ sung cho nông dân hay không?
"Tóm lại, tư duy là nền tảng của sự chuyển đổi, kỹ thuật là công cụ, còn thị trường chính là động lực để người nông dân gắn bó bền vững với mô hình lúa phát thải thấp", ông Hoàng nhấn mạnh.
Từ những kết quả bước đầu, có thể thấy con đường sản xuất lúa phát thải thấp đang dần hình thành rõ nét, nơi tư duy đổi mới của nông dân, kỹ thuật phù hợp và thị trường đồng hành sẽ cùng tạo nền tảng cho một ngành lúa gạo xanh, bền vững và thích ứng dài hạn với biến đổi khí hậu.





























