Ớt thế chân lúa, ngô
Tại nhiều địa phương của tỉnh Lào Cai, những diện tích đất từng gắn bó với cây lúa, cây ngô đang từng bước được chuyển đổi sang trồng ớt ri xanh, một cây trồng mới. Sự thay đổi này không chỉ là bước chuyển trong tư duy sản xuất nông nghiệp của người dân mà còn bắt nguồn từ hiệu quả kinh tế mà cây ớt mang lại. Đặc biệt nhờ mô hình liên kết giữa nông dân, hợp tác xã và doanh nghiệp, việc trồng ớt đã mở ra hướng phát triển bền vững, nâng cao thu nhập cho người dân.
Nhiều hộ dân ở phường Cầu Thia, tỉnh Lào Cai đã chuyển đổi đất trồng lúa, trồng ngô kém hiệu quả sang trồng ớt. Ảnh: Thanh Ngà.
Thời điểm này đang là vụ xuống giống ớt tại nhiều địa phương, trong đó có phường Cầu Thia, tỉnh Lào Cai. Tại đây, chị Hoàng Thị Chung đã bắt đầu trồng ớt trên diện tích 600m2. Đây là năm thứ ba chị mạnh dạn chuyển đổi từ cây trồng truyền thống như lúa và ngô sang cây ớt. Mô hình trồng ớt hiện đang mang lại hiệu quả cao, giúp hàng trăm hộ dân trong khu vực có thu nhập ổn định, cải thiện đời sống.
Chị Hoàng Thị Chung chia sẻ: “Với khoảng 600m2 đất, mỗi năm gia đình tôi thu được khoảng 5 tấn ớt, giá ớt trung bình 6.000 - 7.000 đồng/kg, lãi trên 20 triệu đồng sau khi trừ chi phí. Cây ớt trồng chỉ hơn hai tháng là có thể thu hoạch, nhanh hơn rất nhiều so với trồng lúa hay ngô".
Toàn bộ quá trình trồng ớt được thực hiện theo đúng hướng dẫn kỹ thuật của hợp tác xã. Người dân không chỉ được cung cấp đầy đủ giống, phân bón, thuốc bảo vệ thực vật mà còn được hỗ trợ kỹ thuật trong suốt quá trình trồng. Đặc biệt, sản phẩm sau thu hoạch được bao tiêu, giúp người trồng yên tâm, không còn lo cảnh được mùa mất giá hay phải tự mình xoay xở tìm đầu ra cho sản phẩm.
Chị Hoàng Thị Chung chia sẻ: “Trồng ớt mang lại hiệu quả kinh tế cao hơn nhiều lần so với trồng lúa, trồng ngô. Nhờ có hợp tác xã bao tiêu sản phẩm, chúng tôi không phải lo đầu ra, cũng không phải vất vả mang ra chợ bán lẻ từng cân như trước".
Thời điểm này đang là vụ xuống giống ớt tại nhiều địa phương của tỉnh Lào Cai. Ảnh: Thanh Ngà.
Không chỉ riêng chị Chung, gia đình chị Hà Thị Toán ở phường Cầu Thia, tỉnh Lào Cai cũng đang có thu nhập cao từ việc chuyển đổi cây trồng. Từ khi mạnh dạn chuyển 1.000m2 đất trồng ngô sang trồng ớt, thu nhập của gia đình chị Toán đã tăng đáng kể. Gần đây nhất, mỗi vụ chị thu về khoảng 50 triệu đồng, sau khi trừ chi phí còn lãi khoảng 40 triệu. Chị Toán chia sẻ: “So với trồng ngô thì hiệu quả kinh tế cao hơn hẳn, giờ chúng tôi không còn muốn quay lại trồng ngô nữa".
Không chỉ mang lại thu nhập ổn định, việc trồng ớt còn góp phần cải thiện đáng kể điều kiện lao động cho người dân. Theo chị Hà Thị Toán, kỹ thuật canh tác hiện nay đã an toàn và tiết kiệm công sức hơn rất nhiều. Cụ thể, hợp tác xã hướng dẫn người dân phủ bạt lên bề mặt luống để hạn chế cỏ dại và giữ ẩm cho đất, nhờ đó không cần dùng thuốc trừ cỏ.
Các loại thuốc bảo vệ thực vật được sử dụng đều là thuốc sinh học, an toàn cho sức khỏe, thời gian cách ly ngắn, chỉ từ 2 đến 3 ngày, nhiều nhất chỉ 5 đến 7 ngày là có thể thu hái. Các loại thuốc được sử dụng cho cây ớt đều thân thiện với môi trường, đảm bảo an toàn cho người trồng lẫn người tiêu dùng.
Liên kết tạo vùng nguyên liệu xuất khẩu
Đằng sau thành công của mô hình trồng ớt tại Lào Cai là vai trò không nhỏ của các doanh nghiệp, hợp tác xã trong việc xây dựng chuỗi liên kết sản xuất bền vững. Hợp tác xã Sản xuất và Chế biến nông sản xuất khẩu GOC là một trong những đơn vị tiên phong triển khai mô hình này, góp phần đưa cây ớt trở thành hướng đi mới mang lại hiệu quả kinh tế cao cho người dân.
Người dân được hợp tác xã hướng dẫn quy trình canh tác để sản phẩm ớt đạt tiêu chuẩn an toàn thực phẩm và bảo vệ sức khỏe người trồng. Ảnh: Thanh Ngà.
Ông Trần Minh Chiến, Chủ tịch Hội đồng quản trị kiêm Giám đốc Hợp tác xã Sản xuất và Chế biến nông sản xuất khẩu GOC cho biết, đơn vị hiện đang liên kết với người dân tại nhiều nơi của tỉnh Lào Cai để xây dựng vùng nguyên liệu ổn định, đạt chất lượng cao phục vụ xuất khẩu. Riêng tại phường Cầu Thia đã có khoảng 300 hộ tham gia mô hình, trên toàn tỉnh, con số này dao động từ 500 đến 600 hộ liên kết sản xuất với các hợp tác xã.
Theo ông Chiến, mô hình trồng ớt có lợi nhuận cao gấp 8 - 10 lần so với trồng lúa, trồng ngô. Đặc biệt, người dân không cần bỏ vốn đầu tư ban đầu bởi được cung cấp toàn bộ giống, phân bón, thuốc bảo vệ thực vật và hướng dẫn kỹ thuật. Chi phí đầu tư được trừ sau khi thu hoạch giúp người dân yên tâm sản xuất, không lo áp lực tài chính.
Giống ớt được chọn trồng là giống ri xanh, sai quả, chất lượng đồng đều, phù hợp xuất khẩu sang các thị trường khó tính như Mỹ, Nhật Bản, Hàn Quốc. Tuy nhiên, để đạt chuẩn, quy trình canh tác phải tuân thủ nghiêm ngặt, đặc biệt là yêu cầu về dư lượng thuốc bảo vệ thực vật.
Hợp tác xã Sản xuất và Chế biến nông sản xuất khẩu GOC hướng dẫn người dân cách nhận biết sâu hại trên cây ớt. Ảnh: Thanh Ngà.
Hợp tác xã Sản xuất và Chế biến nông sản xuất khẩu GOC quy định không sử dụng thuốc diệt cỏ, chỉ dùng thuốc bảo vệ thực vật sinh học có thời gian cách ly ngắn. Điều này không chỉ giúp sản phẩm đạt tiêu chuẩn an toàn thực phẩm mà còn bảo vệ sức khỏe người trồng. Đơn vị cũng trực tiếp cung cấp thuốc, tránh tình trạng người dân tự ý mua thuốc không đạt chuẩn ngoài thị trường.
Một trong những thách thức lớn nhất là sâu bệnh hại cây ớt, đặc biệt là bọ trĩ gây xoăn ngọn. Để xử lý, người dân được hướng dẫn phun thuốc phòng ngừa định kỳ, kể cả khi chưa phát hiện sâu bệnh. Sau mỗi đợt thu hoạch, việc phun thuốc tiếp tục duy trì nhằm bảo vệ cây, đảm bảo năng suất trong suốt vụ.
Nhờ mô hình liên kết giữa doanh nghiệp - hợp tác xã - nông dân, vùng nguyên liệu ớt tại Lào Cai đang dần hình thành, tạo chuỗi giá trị khép kín từ sản xuất đến tiêu thụ. Mỗi hecta ớt cho năng suất từ 6 - 7 tấn, thậm chí có thể lên tới 10 tấn nếu chăm sóc tốt. Đây là con số rất khả quan so với nhiều cây trồng khác.
Từ một cây trồng phụ ít được chú ý, ớt đang dần chiếm vị trí quan trọng trong cơ cấu cây trồng của nhiều địa phương ở Lào Cai. Điều này không chỉ giúp tăng thu nhập cho người dân mà còn mở ra hướng phát triển nông nghiệp hàng hóa bài bản, đáp ứng nhu cầu thị trường trong và ngoài nước.





























