Chọn cây trồng theo điều kiện sinh thái
An Giang là tỉnh có quy mô sản xuất trồng trọt lớn nhất khu vực ĐBSCL, với hệ sinh thái nông nghiệp đa dạng trải dài từ vùng lúa trọng điểm Tứ giác Long Xuyên, Tây sông Hậu đến tiểu vùng sinh thái U Minh Thượng. Trong bối cảnh biến đổi khí hậu ngày càng gay gắt, áp lực giảm phát thải và yêu cầu thị trường ngày càng cao, tỉnh xác định đa dạng cây trồng gắn với quy trình canh tác hiện đại là hướng đi tất yếu.
Canh tác lúa với quy trình hiện đại, quản lý sức khỏe cây trồng tổng hợp giúp bụi nở to, cây khỏe, giảm dịch hại, môi trường được bảo vệ tốt hơn. Ảnh: Trung Chánh.
Theo kế hoạch sản xuất và liên kết tiêu thụ trong lĩnh vực trồng trọt năm 2026, An Giang tiếp tục giữ vai trò trụ cột của ngành lúa gạo, đồng thời chủ động chuyển đổi linh hoạt cơ cấu cây trồng trên những diện tích kém hiệu quả, từng bước hình thành nền nông nghiệp xanh, bền vững và thích ứng khí hậu
Cụ thể, năm 2026 toàn tỉnh bố trí diện tích gieo trồng lúa hơn 1,35 triệu ha, sản lượng dự kiến gần 8,9 triệu tấn. Điểm nhấn không chỉ nằm ở quy mô, mà ở chất lượng sản xuất khi tỷ lệ gieo trồng giống lúa chất lượng cao đạt trên 90% diện tích, gắn với các gói kỹ thuật tiên tiến như “3 giảm - 3 tăng”, “1 phải - 5 giảm” và sản xuất theo chuỗi liên kết. Đây là nền tảng quan trọng giúp giảm chi phí đầu vào, tiết kiệm nước, phân bón, thuốc bảo vệ thực vật, qua đó cắt giảm phát thải khí nhà kính ngay từ đồng ruộng.
Ngành nông nghiệp An Giang phát triển đang dạng cây trồng phù hợp với từng tiểu vùng sinh thái, áp dụng quy trình canh tác hiện đại giúp nâng cao hiệu quả và giảm phát thải. Ảnh: Trung Chánh.
Song song với cây lúa, An Giang đẩy mạnh phát triển rau màu với diện tích gần 69.700 ha, sản lượng khoảng 1,46 triệu tấn. Các vùng chuyên canh rau màu được bố trí linh hoạt theo mùa vụ, gắn với hợp tác xã và doanh nghiệp tiêu thụ, từng bước thay đổi tư duy “sản xuất những gì mình có” sang “sản xuất theo nhu cầu thị trường”. Cây ăn trái và cây công nghiệp cũng được quy hoạch ổn định với diện tích hơn 42.900 ha, tập trung vào những vùng có lợi thế sinh thái, hướng tới sản xuất an toàn, truy xuất nguồn gốc và tiêu chuẩn hóa chất lượng.
Áp dụng quy trình canh tác hiện đại
Điểm nhấn xuyên suốt trong kế hoạch trồng trọt năm 2026 của An Giang là lấy khoa học - công nghệ và liên kết chuỗi giá trị làm “đòn bẩy” nâng cao hiệu quả sản xuất và giảm phát thải. Các quy trình canh tác tiên tiến được mở rộng trên quy mô lớn, từ quản lý dịch hại tổng hợp (IPM), quản lý sức khỏe cây trồng tổng hợp (IPHM), canh tác lúa bền vững theo SRP, đến cơ giới hóa đồng bộ và ứng dụng chuyển đổi số trong quản lý sản xuất.
Nông dân thực hành gắn thiết bị quản lý nước theo phương pháp tưới ngập khô xen kẽ (AWD), là giải pháp trực tiếp cắt giảm phát thải khí mê-tan, một trong những nguồn phát thải lớn nhất trong canh tác lúa nước. Ảnh: Trung Chánh.
Riêng với lúa, diện tích áp dụng “3 giảm - 3 tăng” năm 2026 đạt hơn 1,15 triệu ha, “1 phải - 5 giảm” đạt trên 700.000 ha. Đây là những gói kỹ thuật đã được kiểm chứng hiệu quả trong thực tiễn, giúp giảm lượng giống gieo sạ, giảm phân đạm, thuốc bảo vệ thực vật, đồng thời tăng năng suất, chất lượng và lợi nhuận. Quan trọng hơn, việc giảm đầu vào hóa học và quản lý nước hợp lý là giải pháp trực tiếp cắt giảm phát thải khí mê-tan, một trong những nguồn phát thải lớn nhất trong canh tác lúa nước.
An Giang cũng dành gần 184.000 ha lúa tham gia Đề án “Phát triển bền vững một triệu ha chuyên canh lúa chất lượng cao, phát thải thấp gắn với tăng trưởng xanh vùng ĐBSCL đến năm 2030”. Đây không chỉ là cam kết chính sách, mà còn là bước đi cụ thể để tỉnh từng bước tiếp cận các cơ chế thị trường carbon, gia tăng giá trị hạt gạo trên thị trường quốc tế.
Phó Giám đốc Trung tâm Khuyến nông An Giang Lê Văn Dũng cho biết, để nhân rộng Đề án 1 triệu ha lúa chất lượng cao, phát thải thấp, đơn vị đã tổ chức các buổi hội nghị tập huấn dành cho cán bộ kỹ thuật, hợp tác xã và lực lượng khuyến nông cộng đồng trên địa bàn. Nội dung tập huấn tập trung vào quy trình canh tác lúa tiên tiến, như quản lý nước theo phương pháp ngập khô xen kẽ (AWD), bón phân vùi, áp dụng IPM, ưu tiên sử dụng thuốc bảo vệ thực vật sinh học, quản lý rơm rạ theo hướng tuần hoàn. Cùng với đó là hướng dẫn quy trình đo đạc, báo cáo và thẩm định phát thải (MRV), sử dụng công cụ số để thu thập dữ liệu và tính toán kết quả giảm phát thải.
Trong canh tác rau màu, nông dân An Giang áp dụng quy trình kinh tế tuần hoàn, tận dụng phế phụ phẩm nông nghiệp tạo lớp phủ, làm phân hữu cơ, góp phần giảm phát thải và bảo vệ môi trường sinh thái nông thôn. Ảnh: Trung Chánh.
Trong lĩnh vực rau màu, cây ăn trái, tỉnh khuyến khích áp dụng VietGAP, GlobalGAP, nông nghiệp hữu cơ và nông nghiệp tuần hoàn. Phế phụ phẩm nông nghiệp được tận dụng làm phân hữu cơ, thức ăn chăn nuôi hoặc nguyên liệu đầu vào cho các mô hình sản xuất mới, góp phần giảm phát thải và bảo vệ môi trường sinh thái nông thôn.
Đặc biệt, liên kết sản xuất và tiêu thụ được xác định là “xương sống” của quá trình chuyển đổi. Năm 2026, An Giang phấn đấu có ít nhất 25% diện tích lúa, 15% diện tích rau màu và cây ăn trái được sản xuất theo chuỗi liên kết với doanh nghiệp. Thông qua hợp đồng bao tiêu, nông dân không chỉ yên tâm đầu ra, mà còn được doanh nghiệp hỗ trợ giống, vật tư, kỹ thuật và quy trình sản xuất đồng bộ, minh bạch.
Cùng với đó, chuyển đổi số được thúc đẩy mạnh mẽ trong trồng trọt, từ nhật ký điện tử, truy xuất nguồn gốc đến sàn giao dịch nông sản. Những công cụ này không chỉ nâng cao năng lực quản lý sản xuất, mà còn giúp nông sản An Giang đáp ứng yêu cầu ngày càng khắt khe của thị trường trong nước và xuất khẩu.
Việc đa dạng hóa cây trồng với quy trình hiện đại không chỉ giúp giảm áp lực độc canh cây lúa, mà còn góp phần phân tán rủi ro trước thiên tai, dịch bệnh và giảm phát thải trong canh tác nông nghiệp, tạo thêm dư địa sinh kế cho nông dân.




























