PGS. TS Mai Văn Trịnh, Viện trưởng Viện Môi trường Nông nghiệp cho biết, từ năm 2023, Việt Nam đã triển khai Đề án phát triển bền vững 1 triệu ha chuyên canh lúa chất lượng cao và phát thải thấp gắn với tăng trưởng xanh vùng ĐBSCL đến năm 2030.
Đến năm 2024, cả nước đã xây dựng 6 mô hình điểm quy mô 50 ha; sang năm 2025, số mô hình tăng lên 11, triển khai tại 6 tỉnh, bình quân mỗi tỉnh có khoảng 2 mô hình. Thực tiễn cho thấy, các mô hình này đều chứng minh rõ hiệu quả và đạt được các mục tiêu mà đề án đặt ra.
Ví dụ, lượng giống gieo sạ đã giảm mạnh so với tập quán canh tác trước đây. Nếu trước kia nông dân thường sử dụng khoảng 150 kg thóc giống/ha, thậm chí có nơi lên tới 200 kg/ha, thì trong các mô hình này chỉ còn khoảng 70 kg/ha, thậm chí có thể giảm xuống 60 kg/ha. Dù vậy, năng suất vẫn được duy trì ổn định, hạt lúa mẩy hơn, chất lượng và hiệu quả sản xuất được nâng lên.
PGS. TS Mai Văn Trịnh, Viện trưởng Viện Môi trường Nông nghiệp cho biết, các mô hình canh tác lúa phát thải thấp còn giúp tiết kiệm đáng kể tài nguyên nước. Ảnh: Duy Học.
Tương tự, lượng phân bón, đặc biệt là phân đạm, cũng được cắt giảm đáng kể. Thay vì bón khoảng 120 kg đạm/ha như trước, các mô hình chỉ sử dụng khoảng 80 kg, tức giảm khoảng 40%, nhưng năng suất vẫn giữ nguyên, không có mô hình nào bị giảm sản lượng. Đồng thời, tình trạng sâu bệnh giảm rõ rệt, số lần phun thuốc bảo vệ thực vật cũng ít hơn nhiều so với canh tác truyền thống.
Bên cạnh đó, các mô hình canh tác lúa phát thải thấp còn giúp tiết kiệm đáng kể tài nguyên nước. Nếu canh tác theo phương thức ngập thường xuyên, để sản xuất 1 kg lúa cần tiêu thụ khoảng 4 m³ nước, thì với các biện pháp tưới ướt khô xen kẽ, lượng nước sử dụng có thể giảm 30 - 50% và chỉ cấp nước khi thật sự cần thiết. Điều này giúp sản xuất lúa thích ứng tốt hơn với bối cảnh biến đổi khí hậu, khi tài nguyên nước được dự báo sẽ ngày càng suy giảm...
Ở góc độ đào tạo và khoa học, TS. Vũ Duy Hoàng, Phó Giám đốc Trung tâm Nông nghiệp hữu cơ, Khoa Nông học, Học viện Nông nghiệp Việt Nam kỳ vọng kết nối nhà khoa học - doanh nghiệp - hợp tác xã, người dân để hình thành chuỗi giá trị lúa gạo phát thải thấp.
TS. Vũ Duy Hoàng, Phó Giám đốc Trung tâm Nông nghiệp hữu cơ, Khoa Nông học, Học viện Nông nghiệp Việt Nam kỳ vọng kết nối nhà khoa học - doanh nghiệp - hợp tác xã, người dân để hình thành chuỗi giá trị lúa gạo phát thải thấp. Ảnh: Duy Học.
TS Hoàng chia sẻ, trong sản xuất nông nghiệp nói chung và sản xuất lúa gạo giảm phát thải nói riêng, chuỗi liên kết giữ vai trò đặc biệt quan trọng, nhất là sự gắn kết giữa nhà khoa học, doanh nghiệp, hợp tác xã và người nông dân.
“Tôi luôn kỳ vọng rằng những bên tham gia trong chuỗi giá trị này phát huy hết vai trò và trách nhiệm của mình, thì chúng ta sẽ có một chuỗi liên kết thực sự hiệu quả và mang lại những giá trị đích thực cho cộng đồng, cho xã hội và cho các bên tham gia”, ông Hoàng bày tỏ.
Trong đó, nhà khoa học giữ vai trò tiên phong trong việc nghiên cứu, phát triển và chuyển giao những quy trình kỹ thuật chuẩn, dễ áp dụng và được chứng minh bằng số liệu đo đạc, giúp giảm phát thải một cách rõ ràng và minh bạch.
Doanh nghiệp trở thành “đầu kéo” của thị trường: Hỗ trợ đầu tư công nghệ và vốn, giám sát quá trình áp dụng kỹ thuật, bao tiêu sản phẩm, xây dựng thương hiệu, thậm chí đăng ký tín chỉ carbon từ hoạt động giảm phát thải, và kết nối với những thị trường chất lượng cao - nơi giá trị “lúa gạo phát thải thấp” được công nhận.
Hợp tác xã đóng vai trò tổ chức sản xuất, giúp nông dân áp dụng kỹ thuật đồng bộ, minh bạch dữ liệu, đáp ứng yêu cầu của thị trường và doanh nghiệp.
Người nông dân vẫn là trung tâm - là người trực tiếp thực hành kỹ thuật và được hưởng lợi từ giảm chi phí, tăng hiệu quả, có thị trường ổn định và có thêm cơ hội từ tín chỉ carbon.
Trong sản xuất nông nghiệp nói chung và sản xuất lúa gạo giảm phát thải nói riêng, chuỗi liên kết giữ vai trò đặc biệt quan trọng. Ảnh: Hồng Thắm.
“Tôi tin rằng khi bốn chủ thể này kết nối chặt chẽ, chúng ta không chỉ giảm phát thải mà còn nâng cao giá trị hạt gạo Việt Nam, xây dựng vùng nguyên liệu lớn và tiến tới một chuỗi giá trị xanh - bền vững cho ngành lúa gạo trong tương lai”.
Về lâu dài, phát triển lúa gạo theo hướng chất lượng cao, phát thải thấp không chỉ là giải pháp kỹ thuật nhằm giảm phát thải khí nhà kính, mà còn là con đường tái cấu trúc toàn diện ngành lúa gạo Việt Nam. Khi các mô hình hiệu quả được nhân rộng, các chủ thể trong chuỗi giá trị gắn kết chặt chẽ, từ nhà khoa học, doanh nghiệp, hợp tác xã đến người nông dân, sản xuất lúa sẽ vừa thích ứng tốt hơn với biến đổi khí hậu, vừa nâng cao giá trị hạt gạo, tạo vùng nguyên liệu bền vững, góp phần thực hiện các cam kết quốc gia về giảm phát thải và mục tiêu phát thải ròng bằng “0” vào năm 2050.





























