Linh hoạt mở rộng thị trường
Những ngày đầu tháng 9/2025, ngành lúa gạo Việt Nam chứng kiến biến động đáng chú ý khi Philippines - thị trường tiêu thụ gạo lớn nhất của nước ta đã tạm ngừng nhập khẩu trong vòng 60 ngày. Quyết định này ngay lập tức tác động đến giá lúa trong nước. Tuy nhiên, nhờ sự vào cuộc kịp thời của Chính phủ cùng những tín hiệu mới từ các thị trường quốc tế, bức tranh xuất khẩu gạo Việt Nam vẫn được đánh giá là có triển vọng khả quan trong thời gian tới.

Ông Trần Tấn Đức, thành viên HĐQT Tổng Công ty lương thực miền Nam (Vinafood 2), Phó Chủ tịch Hiệp hội Lương thực Việt Nam (VFA). Ảnh: Lê Hoàng Vũ.
Ông Trần Tấn Đức, thành viên HĐQT Tổng Công ty Lương thực miền Nam (Vinafood 2), Phó chủ tịch Hiệp hội Lương thực Việt Nam (VFA) cho biết, việc Philippines tạm dừng nhập khẩu khiến thị trường có phần chững lại. Một số doanh nghiệp đã linh hoạt tìm hướng đi mới bằng cách chuyển hướng xuất khẩu sang thị trường châu Phi. Hiện nay, gạo Việt Nam xuất sang khu vực này được chào bán với mức giá dao động từ 485 – 490 USD/tấn (tùy điều kiện giao hàng). Đây là kênh tiêu thụ đáng kể, góp phần giải quyết đầu ra cho bà con nông dân vào cuối vụ hè thu.
Song song đó, Bộ Tài chính đã triển khai chương trình thu mua 280.000 tấn lúa gạo để đưa vào dự trữ. Chính sách này đã phần nào giúp nâng giá lúa trong nước, hỗ trợ nông dân ổn định sản xuất, tránh tình trạng rớt giá sâu khi thị trường Philippines đóng cửa tạm thời. Việc Nhà nước và doanh nghiệp đồng hành cùng bà con nông dân vào thời điểm then chốt cho thấy sự chủ động, linh hoạt trong điều hành thị trường lúa gạo.
Đáng chú ý, dù Philippines thông báo ngừng nhập khẩu đến hết tháng 10/2025, nhưng chỉ ít ngày gần đây, khách hàng từ quốc gia này đã quay lại liên hệ với doanh nghiệp Việt Nam để hỏi mua gạo, dự kiến nhập hàng vào đầu tháng 11. “Người tiêu dùng Philippines đã quen với gạo Việt Nam, cả về chất lượng lẫn giá cả. Do đó, chắc chắn thị trường này sẽ quay trở lại với sản lượng ước tính khoảng 1 triệu tấn trong những tháng tới,” ông Đức thông tin tại Hội nghị “Sơ kết sản xuất trồng trọt, BVTV năm 2025; triển khai kế hoạch vụ đông xuân 2025–2026 tại các tỉnh, thành phía Nam” vừa diễn ra tại tỉnh Đồng Tháp.
Tuy nhiên, theo ông Đức, các doanh nghiệp xuất khẩu vẫn đang thận trọng. Nguyên nhân chính là rủi ro liên quan đến giấy chứng nhận SPS-IC (giấy phép kiểm dịch an toàn thực phẩm và chứng nhận nhập khẩu) do Chính phủ Philippines cấp cho thương nhân nhập khẩu. Nếu đến thời điểm giao hàng mà phía bạn chưa hoàn tất thủ tục này thì việc ký hợp đồng sẽ gặp khó khăn.

Nông dân thu hoạch và vận chuyển lúa tại ruộng ở ĐBSCL, chuẩn bị tiêu thụ và xuất khẩu. Ảnh: Lê Hoàng Vũ.
Trong bối cảnh đó, chiến lược mở rộng thị trường sang châu Phi được xem là bước đi đúng đắn, vừa giúp giải quyết khó khăn trước mắt, vừa mở thêm dư địa cho xuất khẩu gạo Việt Nam. Châu Phi được đánh giá là thị trường tiềm năng, có nhu cầu nhập khẩu lớn và ổn định dù giá không cao bằng các thị trường truyền thống như Philippines, Indonesia hay Trung Quốc. Sự hiện diện của gạo Việt Nam tại khu vực này không chỉ giúp đa dạng hóa thị trường mà còn giảm thiểu phụ thuộc vào một vài khách hàng lớn.
Giới chuyên gia cho rằng, xuất khẩu gạo Việt Nam trong những tháng cuối năm vẫn có nhiều cơ hội. Nhu cầu lương thực toàn cầu được dự báo tiếp tục tăng, nhất là trong bối cảnh biến đổi khí hậu, hạn hán và El Nino tác động đến sản xuất nông nghiệp ở nhiều quốc gia. Việt Nam với lợi thế là một trong ba nước xuất khẩu gạo hàng đầu thế giới hoàn toàn có thể tận dụng thời cơ này để nâng cao giá trị hạt gạo.
Ngoài ra, các doanh nghiệp Việt Nam cũng đang chú trọng đến yếu tố chất lượng, truy xuất nguồn gốc và giảm phát thải trong sản xuất lúa gạo. Đây là điều kiện quan trọng để mở rộng xuất khẩu sang các thị trường khó tính hơn ở châu Âu và Trung Đông. Việc tham gia các hiệp định thương mại tự do cũng tạo thêm lợi thế cạnh tranh về thuế quan và tiêu chuẩn hàng hóa cho gạo Việt Nam.
Lãnh đạo Vinafood 2 khẳng định, tín hiệu từ thị trường Philippines quay trở lại, cộng với sự mở rộng sang châu Phi và các chính sách hỗ trợ trong nước cho thấy ngành lúa gạo Việt Nam sẽ không rơi vào thế khó. Ngược lại, đây là cơ hội để tái cơ cấu thị trường, nâng cao vị thế hạt gạo Việt trên trường quốc tế.

Công nhân đóng gói gạo tại nhà máy, đảm bảo tiêu chuẩn chất lượng trước khi đưa ra thị trường. Ảnh: Lê Hoàng Vũ.
Chuỗi liên kết nông dân, HTX và doanh nghiệp
Hiện nay, toàn vùng ĐSBSCL đang bước vào giai đoạn cuối vụ hè thu và chuẩn bị cho vụ đông xuân 2025–2026. Với sản lượng lúa dồi dào, nhu cầu tiêu thụ cấp bách, việc điều tiết xuất khẩu kịp thời có ý nghĩa quan trọng trong việc giữ ổn định thu nhập cho nông dân. Sự linh hoạt của doanh nghiệp và sự hỗ trợ từ Chính phủ được kỳ vọng sẽ giúp giá lúa gạo nội địa tiếp tục duy trì mức ổn định, hướng đến vụ mùa mới thuận lợi hơn.
“Có thể thấy dù gặp trở ngại tạm thời từ thị trường Philippines nhưng ngành lúa gạo Việt Nam vẫn đứng vững, thậm chí mở ra triển vọng khả quan hơn nhờ sự kết hợp giữa chính sách điều hành, sự năng động của doanh nghiệp và nhu cầu thị trường quốc tế. Nếu duy trì đà này, từ nay đến cuối năm 2025, xuất khẩu gạo Việt Nam hoàn toàn có thể đạt và vượt kế hoạch, khẳng định vị thế là một trong những trụ cột của nông nghiệp và kinh tế quốc gia” ông Trần Tấn Đức đánh giá.
Ông Lê Thanh Tùng, Tổng Thư ký Hiệp hội ngành hàng Lúa gạo Việt Nam (Vietrisa) cho biết, mỗi năm cả nước sản xuất khoảng 43 triệu tấn lúa, riêng ĐBSCL đạt 25 triệu tấn, cho ra 12–13 triệu tấn gạo, trong đó khoảng 7 triệu tấn xuất khẩu. Định hướng bền vững trong sản xuất lúa gạo nước ta là giữ sản lượng ổn định hoặc tăng nhẹ, bởi nếu giảm diện tích hay năng suất sẽ ảnh hưởng đến hàng trăm nghìn hộ dân. Vì vậy, chính sách cần khuyến khích nông dân thay vì để họ tự ý giảm diện tích.

Người tiêu dùng Philippines đã quen với gạo Việt Nam, cả về chất lượng lẫn giá cả. Do đó, chắc chắn thị trường này sẽ quay trở lại với sản lượng ước tính khoảng 1 triệu tấn trong những tháng tới. Ảnh: Lê Hoàng Vũ.
Theo ông Tùng, bố trí sản xuất phải dựa vào dự báo dài hạn thay vì thị trường ngắn hạn. Tổng sản lượng và thương mại gạo toàn cầu duy trì ổn định 51–52 triệu tấn, các quốc gia chia sẻ thị trường nên không quá lo ngại về tồn kho, kể cả thông tin Ấn Độ còn lượng gạo lớn. Phần lớn hàng tồn trữ lâu có chất lượng thấp, chỉ phù hợp với một nhóm khách hàng nhất định.
"Chuỗi ngành hàng từ nông dân, HTX và doanh nghiệp cung ứng, thu mua, xay xát, xuất khẩu đến tiêu thụ trong nước phải được xử lý đồng bộ. Nếu chỉ hỗ trợ khâu cuối sẽ gây mất cân bằng. Trước mắt, cần hỗ trợ doanh nghiệp, về lâu dài, nên đầu tư cho hợp tác xã có khả năng tồn trữ 30–40 ngày để tối đa hóa lợi ích. Sản xuất hiệu quả, gắn kết doanh nghiệp, HTX và nông dân mới là giải pháp căn cơ, phù hợp với Đề án phát triển bền vững 1 triệu hecta lúa chất lượng cao, giảm phát thải gắn tăng trưởng xanh vùng ĐBSCL đến năm 2030" ông Lê Thanh Tùng, Tổng Thư ký Hiệp hội ngành hàng Lúa gạo Việt Nam nhấn mạnh.