Trong chặng đường 80 năm phát triển của ngành nông nghiệp, Viện Lúa ĐBSCL được xem là cái nôi của nhiều tiến bộ kỹ thuật trong chọn tạo giống và chuyển giao kỹ thuật canh tác.
TS Nguyễn Thúy Kiều Tiên – Phó Viện trưởng Viện Lúa ĐBSCL. Ảnh: Kim Anh.
TS Nguyễn Thúy Kiều Tiên – Phó Viện trưởng Viện Lúa ĐBSCL bộc bạch, từ những năm đầu thành lập, Viện đã từng bước xây dựng đội ngũ cán bộ nghiên cứu, hình thành các chương trình lai tạo và mở rộng hướng nghiên cứu theo nhu cầu thực tiễn của vùng ĐBSCL. Những bước đi này đã góp phần tạo ra lực lượng nghiên cứu kế cận có nền tảng kiến thức vững chắc để bước sang giai đoạn mới của khoa học nông nghiệp.
Giai đoạn 2001 - 2010, khi Viện Lúa ĐBSCL triển khai các chương trình lai tạo đa mục tiêu, hoạt động nghiên cứu khoa học được mở rộng theo hướng tích hợp nhiều yếu tố sinh thái và môi trường. Đây cũng là thời kỳ đội ngũ nhà khoa học của Viện được tích lũy kinh nghiệm qua việc phát triển hàng loạt giống mới như OMCS2000, OM2517, OM5930 hay OM6162.
“Mỗi giống lúa được tạo ra là một quá trình dài, đòi hỏi khả năng phân tích, thử nghiệm, đánh giá và phối hợp giữa nhiều nhóm nghiên cứu. Những yêu cầu đó giúp đội ngũ cán bộ trẻ trưởng thành nhanh chóng, tự tin đảm nhiệm các khâu trong chuỗi nghiên cứu từ phòng thí nghiệm đến sản xuất thực tế”, TS Kiều Tiên ghi nhận.
Viện Lúa ĐBSCL - nơi thường xuyên diễn ra các chương trình trình diễn khoa học kỹ thuật mới trong sản xuất lúa. Ảnh: Kim Anh.
Bên cạnh đó, Viện Lúa ĐBSCL đặc biệt chú trọng công tác chuyển giao các quy trình kỹ thuật canh tác. Viện đã xây dựng được 12 quy trình kỹ thuật và đã được công nhận ở cấp quốc gia. Trong đó có 6 quy trình kỹ thuật canh tác lúa, 2 quy trình kỹ thuật canh tác cây trồng cạn luân canh với lúa và 4 quy trình phòng trừ sâu bệnh hại cây trồng.
Các giải pháp kỹ thuật này được Viện phối hợp với các đơn vị khác đưa vào áp dụng trong thực tiễn sản xuất, mang lại hiệu quả rất lớn cho bà con nông dân. Điển hình là giải pháp "3 giảm 3 tăng", "1 phải 5 giảm", "1 phải 6 giảm", kỹ thuật canh tác lúa trong điều kiện hạn mặn…
Những tiến bộ gần đây trong ứng dụng máy bay nông nghiệp không người lái (drone), kỹ thuật sạ hàng, quản lý nước tiết kiệm hay sử dụng chế phẩm sinh học Ometar/Biovip để phòng trừ rầy nâu cũng mở ra hướng nghiên cứu gắn với công nghệ cao.
Việc áp dụng công nghệ sinh học trong nhân nuôi nấm trắng, nấm xanh phục vụ quản lý dịch hại cũng cho thấy đội ngũ nghiên cứu của Viện không ngừng mở rộng phạm vi chuyên môn, tiếp cận nhiều lĩnh vực mới ngoài chọn tạo giống. Đây là minh chứng rõ nét cho quá trình đổi mới tư duy nghiên cứu khoa học trong bối cảnh nông nghiệp hiện đại đòi hỏi tích hợp giữa sinh học, công nghệ và quản lý môi trường.
Khoa học công nghệ mở ra cơ hội lớn cho công tác chọn tạo giống lúa tại Viện Lúa ĐBSCL. Ảnh: Kim Anh.
Những năm gần đây, Chính phủ và Bộ Nông nghiệp và Môi trường đã triển khai nhiều chính sách trọng điểm như Đề án 1 triệu ha lúa chất lượng cao, phát thải thấp; chương trình nông nghiệp tuần hoàn, nông nghiệp hữu cơ, hướng tới tăng trưởng xanh và bền vững. Viện Lúa ĐBSCL đóng vai trò hỗ trợ về kỹ thuật, cung cấp giống lúa đạt chất lượng và tham gia hướng dẫn kỹ thuật giảm giống gieo sạ, tiết kiệm nước, bón phân và sử dụng thuốc bảo vệ thực vật đúng cách, xử lý rơm rạ sau thu hoạch, đo đạc khí phát thải...
Đây là cơ hội để Viện chung tay cùng các địa phương vùng ĐBSCL chuyển đổi phương thức sản xuất. Trong thông điệp gửi đến địa phương, doanh nghiệp và nông dân, TS Nguyễn Thúy Kiều Tiên khẳng định, sự thành công của nông nghiệp xanh, thích ứng và bền vững đòi hỏi sự phối hợp của tất cả các thành phần. Nhà quản lý cần định hướng chiến lược, doanh nghiệp phải gắn trách nhiệm trong toàn chuỗi sản xuất còn nông dân cần tuân thủ khuyến cáo kỹ thuật và kiểm soát chất lượng sản phẩm.
Giai đoạn phát triển mới, đội ngũ nhà khoa học Viện Lúa ĐBSCL tiếp tục đổi mới, sáng tạo, đóng góp cho phát triển nông nghiệp bền vững. Ảnh: Kim Anh.
Đối với đội ngũ trẻ trong lĩnh vực nông nghiệp, TS Kiều Tiên kỳ vọng họ sẽ kết hợp được khả năng tiếp cận khoa học công nghệ thế giới với trải nghiệm thực tiễn tại đồng ruộng, kế thừa những thành quả của thế hệ đi trước và tiếp tục đổi mới sáng tạo để đóng góp cho phát triển nông nghiệp bền vững.
Trong hành trình 80 năm ngành nông nghiệp, những đóng góp của Viện Lúa ĐBSCL trong đổi mới nghiên cứu và đào tạo nhân lực chính là nền tảng tạo nên sức bền của ngành. Viện đã và đang xây dựng thế hệ nhà khoa học đủ bản lĩnh, tri thức.


























