Trong hành trình 80 năm xây dựng và phát triển của ngành nông nghiệp Việt Nam, Viện Lúa ĐBSCL giữ vị trí đặc biệt, là trung tâm nghiên cứu và phát triển giống lúa quan trọng của cả nước.
Sự ra đời của Viện vào năm 1977 đã đáp ứng đòi hỏi cấp bách về an ninh lương thực quốc gia trong bối cảnh chiến tranh vừa kết thúc, sản lượng lúa vùng ĐBSCL còn thấp và chưa thể đóng vai trò trụ cột như hiện nay.
Nhìn lại gần 50 năm phát triển, TS Nguyễn Thúy Kiều Tiên - Phó Viện trưởng Viện Lúa ĐBSCL bộc bạch, Viện đã nghiên cứu và đưa vào sản xuất hơn 180 giống lúa với những ưu thế vượt trội về năng suất, chất lượng, khả năng chống chịu sâu bệnh và thích ứng với điều kiện thời tiết khắc nghiệt của vùng châu thổ.
Viện Lúa ĐBSCL là đơn vị nghiên cứu khoa học hàng đầu về cây lúa của nước ta. Ảnh: Kim Anh.
Trước năm 2000, nhiều giống được chọn lọc từ nguồn gen nhập nội của Viện Nghiên cứu Lúa Quốc tế (IRRI), góp phần hình thành nền tảng ban đầu cho công tác chọn tạo giống hiện đại của Việt Nam.
Tuy nhiên, bước ngoặt đến từ giai đoạn đầu những năm 2000 khi Viện Lúa ĐBSCL hoàn toàn chủ động trong công nghệ lai tạo, rút ngắn thời gian sinh trưởng của cây lúa từ 120 - 130 ngày xuống còn 90 - 105 ngày, phù hợp với điều kiện canh tác nhiều vụ và yêu cầu sản xuất hàng hóa của vùng ĐBSCL.
Sau năm 2010, hướng nghiên cứu của Viện tiếp tục mở rộng theo đa mục tiêu, không chỉ tập trung vào năng suất và chất lượng mà còn đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của thị trường xuất khẩu và điều kiện sản xuất của nông dân.
Sự thay đổi này gắn liền với định hướng phát triển chung của ngành nông nghiệp trong giai đoạn hội nhập sâu rộng, từ mục tiêu đảm bảo đủ ăn tiến lên mục tiêu tạo ra giá trị gia tăng cao và nâng tầm thương hiệu gạo Việt Nam trên thị trường quốc tế.
Những đóng góp của Viện Lúa ĐBSCL thể hiện rõ nhất ở tốc độ tăng trưởng nổi bật về năng suất lúa toàn vùng ĐBSCL. Nếu như trước năm 1980, tổng sản lượng lúa ở ĐBSCL dưới 2 triệu tấn/năm, năng suất trung bình dưới 2 tấn/ha thì đến năm 2024 đã đạt 6,3 tấn/ha, đưa tổng sản lượng lúa toàn vùng tăng gấp 12 lần, đạt 24 - 25 triệu tấn/năm.
Ngoài giống lúa, TS Kiều Tiên cũng ghi nhận sự đóng góp của hạ tầng thủy lợi, sự phát triển của ngành sản xuất phân bón, thuốc bảo vệ thực vật và nỗ lực của nông dân trong canh tác. Theo phương pháp tính toán của FAO, khoa học và công nghệ đóng góp đến 30% vào sự gia tăng sản lượng. Điều này cho thấy vai trò của Viện Lúa ĐBSCL là trụ cột quan trọng trong việc đưa Việt Nam trở thành một trong những cường quốc sản xuất và xuất khẩu gạo.
Hiện nay, công tác lai tạo giống lúa của Viện Lúa ĐBSCL được chuyển dịch theo hướng đa mục tiêu. Ảnh: Kim Anh.
TS Kiều Tiên dẫn chứng, bộ giống lúa do Viện Lúa ĐBSCL lai tạo mang thương hiệu OM đã trở thành nhóm giống chủ lực của ĐBSCL suốt nhiều thập kỷ qua. Những giống lúa ngắn ngày đầu tiên được “phóng thích” vào thập niên 1990 đã đưa Việt Nam quay trở lại thị trường xuất khẩu gạo.
Những giống như OM5930 giúp nông dân vượt qua dịch vàng lùn, lùn xoắn lá giai đoạn 2005 - 2006, trong khi OM4900, OM6162, OM5451 cho thấy khả năng phát triển vượt trội trong điều kiện biến đổi khí hậu, đặc biệt là hạn hán và xâm nhập mặn.
Nổi bật, giống OM5451 với diện tích canh tác trên 1,1 triệu ha vào năm 2017 đã trở thành một trong những giống lúa được canh tác nhiều nhất trong lịch sử vùng ĐBSCL. Gần đây, giống lúa OM18 tiếp tục nối dài thành công khi diện tích gieo trồng năm 2024 đạt trên 1 triệu ha, khẳng định sức sống của bộ giống OM trong sản xuất lúa hiện đại.
Nếu như trước năm 2015, nhóm giống lúa phục vụ chế biến chiếm ưu thế thì đến nay lúa thơm và chất lượng cao đã chiếm hơn 80% diện tích. Năm 2024, xuất khẩu gạo đạt gần 9 triệu tấn với giá trị 5,7 tỷ USD, tăng 24% giá trị so với năm 2023. Trong đó, những giống do Viện Lúa ĐBSCL chọn tạo chiếm tỷ lệ hơn 60% diện tích sản xuất của vùng, đóng vai trò “xương sống” trong chuỗi giá trị lúa gạo quốc gia.
Cơ cấu giống lúa ở ĐBSCL chuyển dịch mạnh mẽ theo hướng chất lượng. Ảnh: Kim Anh.
Hành trình gần nửa thế kỷ của Viện Lúa ĐBSCL, xét trong chặng đường 80 năm phát triển của ngành nông nghiệp không chỉ là câu chuyện về nghiên cứu mà còn là câu chuyện về khả năng thích ứng, sáng tạo và đồng hành cùng nông dân. Viện đã trưởng thành cùng với những đổi thay của ngành, từ giai đoạn đảm bảo an ninh lương thực đến mục tiêu nâng chất, rồi tiến tới mục tiêu phát triển bền vững.
Mỗi giống lúa được phóng thích, mỗi tiến bộ kỹ thuật được nghiên cứu đều phản ánh tâm huyết của nhiều thế hệ cán bộ khoa học, đóng góp vào hành trình đưa Việt Nam từ một nước thiếu ăn trở thành một trong những trụ cột đảm bảo lương thực cho thế giới.
Trải qua nhiều thời kỳ phát triển, Viện Lúa ĐBSCL đã khẳng định vai trò không thể thay thế trong nền nông nghiệp Việt Nam. Những đóng góp của Viện đã trở thành một phần quan trọng trong bức tranh 80 năm thành tựu của ngành nông nghiệp.

























