ĐBSCL hiện có khoảng 4 triệu ha đất nông nghiệp với 3 loại đất chính là đất phèn, mặn và đất phù sa. Đây là nguồn lực quan trọng quyết định phương thức phát triển nông nghiệp và sinh kế của toàn vùng. Cùng với đó, tài nguyên nước phục vụ sản xuất và sinh hoạt của người dân đóng vai trò quyết định. Nguồn nước hiện nay phụ thuộc chủ yếu vào sông Mê Kông và nguồn nước mưa.
Tuy nhiên, với địa hình bằng phẳng, độ cao trung bình chỉ 1 - 2m so với mực nước biển, ĐBSCL là một trong những khu vực dễ bị tổn thương nhất trước biến đổi khí hậu.
PGS.TS Nguyễn Xuân Lộc – Phó Trưởng khoa Môi trường và Tài nguyên thiên nhiên (Đại học Cần Thơ). Ảnh: Kim Anh.
Theo PGS.TS Nguyễn Xuân Lộc - Phó Trưởng khoa Môi trường và Tài nguyên thiên nhiên (Đại học Cần Thơ), nếu mực nước biển dâng 100cm, khoảng 48% diện tích ĐBSCL có nguy cơ bị ngập.
Đặc biệt, tình trạng sụt lún đất với tốc độ 1 - 2cm/năm cũng đe dọa nghiêm trọng đến sản xuất và đời sống người dân, nguyên nhân chủ yếu là do khai thác nước ngầm quá mức kết hợp với đặc tính đất trẻ và áp lực từ các công trình xây dựng. Những biến động này gây ảnh hưởng trực tiếp đến sản xuất nông nghiệp và an toàn sinh kế.
Theo TS Lộc, công tác bảo vệ tài nguyên đất, nước và ứng phó biến đổi khí hậu trong nông nghiệp đã được triển khai từ nhiều cấp độ. Ở cấp quốc gia, hàng loạt chương trình nghiên cứu và điều tra cơ bản đã được triển khai. Tiêu biểu như Chương trình 60-02, dự án cải tạo đất phèn và quy hoạch tổng thể ĐBSCL do các chính phủ Hà Lan, Nhật Bản hỗ trợ…
Cột mốc quan trọng nhất, năm 2017, Nghị quyết 120/NĐ-CP ra đời, đánh dấu bước ngoặt quan trọng trong tư duy phát triển tài nguyên nước, đặt trọng tâm vào phát triển bền vững và thích ứng với biến đổi khí hậu.
Trên cơ sở Nghị quyết, Nhà nước đã ban hành nhiều chính sách dài hạn, ưu tiên bố trí nguồn lực đầu tư cho vùng. Cùng với đó, Luật Bảo vệ môi trường 2020 tạo hành lang pháp lý rõ ràng và mạnh mẽ hơn trong quản lý tài nguyên và môi trường.
Công tác bảo vệ tài nguyên nước, ứng phó biến đổi khí hậu đã được ngành nông nghiệp và môi trường triển khai ở nhiều cấp độ. Ảnh: Kim Anh.
Tại Đại học Cần Thơ, các nhà khoa học đang thực hiện nhiều đề tài và dự án nghiên cứu ứng phó biến đổi khí hậu, cải tạo đất, phát triển nông nghiệp bền vững với nguồn tài trợ từ Đức, Nhật Bản, Đan Mạch và ngân sách quốc gia.
Nhiều kết quả nghiên cứu đã được chuyển giao cho địa phương giúp nâng cao năng lực quản lý và khả năng thích ứng của nông dân trước các tác động của biến đổi khí hậu ngày càng gia tăng.
Những nỗ lực của khoa học, truyền thông và các tổ chức quốc tế cũnng góp phần quan trọng trong việc nâng cao nhận thức cộng đồng, doanh nghiệp và chính quyền về bảo vệ môi trường và phát triển bền vững. Từ đó, khái niệm nông nghiệp xanh, phát thải thấp không còn là định hướng xa vời mà đã trở thành yêu cầu cấp thiết của nền nông nghiệp ĐBSCL.
Theo PGS.TS Lộc, nông nghiệp xanh phải là nền nông nghiệp giảm thiểu chất thải, sử dụng tài nguyên hiệu quả, hạn chế phát thải khí nhà kính, đồng thời vẫn duy trì được năng suất và thu nhập cho nông dân. Hệ thống sản xuất nông nghiệp cần đảm bảo sức khỏe của đất, nước, không khí, bảo tồn đa dạng sinh học, hướng tới tiết kiệm và tuần hoàn tài nguyên.
Đề án 1 triệu ha lúa chất lượng cao được triển khai tại ĐBSCL là bước đi lớn của ngành nông nghiệp và môi trường. Ảnh: Kim Anh.
Trong trồng trọt, nông dân cần tăng sử dụng phân hữu cơ, giảm phân vô cơ, hạn chế hóa chất bảo vệ thực vật, áp dụng tưới tiết kiệm và cải thiện sức khỏe đất. Chăn nuôi và nuôi trồng thủy sản phải chú trọng xử lý chất thải, tránh xả trực tiếp ra môi trường. Các tiêu chuẩn thực hành nông nghiệp tốt như VietGAP, GlobalGAP, "1 phải 5 giảm", "1 phải 6 giảm"… cần được đẩy mạnh để hướng đến thị trường xuất khẩu và đảm bảo an toàn môi trường.
Phát triển nông nghiệp bền vững và thích ứng biến đổi khí hậu đòi hỏi sự phối hợp đồng bộ giữa Nhà nước – nhà khoa học – chính quyền địa phương – doanh nghiệp – nông dân. Chính quyền cùng ngành nông nghiệp và môi trường cần tăng cường tập huấn, nâng cao năng lực cho nông dân, phát triển đội ngũ kỹ thuật viên am hiểu sản xuất xanh. Các nhà khoa học tiếp tục nghiên cứu mô hình ít phát thải, tiết kiệm tài nguyên, tuần hoàn chất thải. Doanh nghiệp đảm bảo tiêu thụ ổn định, hạn chế rủi ro được mùa, mất giá.
Ứng dụng khoa học công nghệ quản lý hệ thống cảnh báo rủi ro thiên tai, ứng phó biến đổi khí hậu tại TP Cần Thơ. Ảnh: Kim Anh.
Nhà nước cần ưu tiên các chương trình dài hạn về bảo vệ môi trường, tăng cường đầu tư cho hệ thống thu gom – xử lý chất thải rắn, nước thải cả ở nông thôn lẫn đô thị, đồng thời xây dựng hệ thống quan trắc môi trường và khí hậu để dự báo chính xác các kịch bản nước biển dâng, xâm nhập mặn, sụt lún và thiên tai. Đây là cơ sở quan trọng giúp địa phương và nông dân chủ động ứng phó, giảm thiểu thiệt hại.
“80 năm phát triển đủ để khẳng định vị thế và sứ mệnh của ngành nông nghiệp và môi trường vùng ĐBSCL nói riêng và Việt Nam nói chung”, PGS.TS Nguyễn Xuân Lộc nhấn mạnh và tin tưởng với sự chung tay của Nhà nước, doanh nghiệp, nhà khoa học và đặc biệt là nông dân, ĐBSCL sẽ trở thành vùng nông nghiệp xanh, phát thải thấp và phát triển bền vững trong tương lai gần.



























