Không lặp lại nỗi đau Yagi
Gần một năm kể từ khi cơn bão Yagi quét qua Bắc Bộ và để lại những vết thương hằn sâu trên hệ thống đê điều, Hải Dương bước vào năm 2025 với một thái độ rõ ràng: Không để vết sẹo cũ chảy máu thêm lần nữa.
Ngay từ đầu năm, Sở Nông nghiệp và Môi trường đã tham mưu ban hành Kế hoạch phòng, chống thiên tai mới (1013/KH-UBND), không chỉ dựa trên lý thuyết, mà lấy chính Yagi làm bài học sống. Phương án bảo vệ đê được cập nhật theo cấp độ rủi ro, nâng từ “phản ứng” sang “dự báo”. Nói một cách nôm na, là chưa có lũ, đã có kịch bản ứng phó.
Hơn 370km đê của tỉnh được rà soát lại, khoanh vùng 42 trọng điểm xung yếu, những khu vực mà chỉ cần một điểm yếu nhỏ cũng có thể trở thành tử huyệt. Trong đó, có 1 phương án cấp tỉnh, 41 phương án cấp huyện nhằm phân định trách nhiệm rõ ràng như bàn cờ, để khi nước tràn về, từng quân cờ biết phải làm gì.

Các vị trí xung yếu trên các tuyến đê được cải tạo, nâng cấp theo đúng tiến độ, kế hoạch. Ảnh: Bảo Thắng.
Khi được hỏi về sự chuẩn bị, ông Đinh Xuân Thành, Phó trưởng phòng Phòng chống thiên tai, Chi cục Thủy lợi Hải Dương liệt kê một cách rành mạch. Từ hơn 94.000 người ứng trực, đến từng bao đá, tấm bạt, xuồng máy… mọi thứ đã vào vị trí, như quân cờ chờ hiệu lệnh tổng lực. Từng kho vật tư giờ không còn là nơi "ngủ đông" của thiết bị, mà là "kho đạn" tiếp ứng, sẵn sàng cho cuộc chiến chống thiên tai bất cứ lúc nào.
Cơ chế huy động tại chỗ cũng được kích hoạt xuống tận cấp xã. Nếu có sự cố vượt ngoài dự kiến, lực lượng tại chỗ có thể “gõ cửa” các tổ chức, cá nhân trên địa bàn để nhanh chóng mượn kho, mượn xe, thậm chí mượn chính nhân lực để lập thành các tuyến đê sống.
“Không ai chống thiên tai một mình”, ông Thành nhấn mạnh. Trong cái nhìn của ông, mỗi đợt mưa lớn là một cuộc thi chạy tiếp sức, nơi chính quyền, doanh nghiệp, người dân cùng góp sức. Người chạy đầu tiên là dự báo, người về đích là sự bình yên.
Đẩy tuyên truyền xuống tận chân đê
Không có rào chắn nào vững bằng nhận thức. Từ năm 2021, Hải Dương đã ban hành kế hoạch thực hiện Đề án “Nâng cao nhận thức cộng đồng về phòng, chống thiên tai”. Đến nay, mạng lưới tuyên truyền trải dài từ mạng xã hội Facebook, Zalo cho tới loa phát thanh xã, nơi mỗi bản tin dự báo được biến thành tiếng gọi cảnh báo bên tai từng người dân.
Trung bình mỗi tháng, hệ thống phát thanh xã của Hải Dương phát hơn 10 bản tin tuyên truyền, hướng dẫn người dân cách buộc lúa trước bão, cách neo lồng cá, cách phát hiện dấu hiệu sạt trượt. Những tờ rơi, từng bị xem là hình thức, nay được dán trên cửa từng nhà, như lời dặn dò từ chính quyền đến mỗi người dân trước cơn bão đêm.
Nếu nhìn từ xa, phòng chống thiên tai thường chỉ là hình ảnh xe cứu hộ lao trong nước ngập hay những chiếc áo phao đỏ giữa dòng. Nhưng ở thủ phủ vải thiều, phòng chống thiên tai năm 2025 là câu chuyện của mùa khô, nơi từng viên đá, từng bao tải cát đã được đưa vào vị trí, từng cán bộ thôn đã học cách sử dụng bộ đàm và định vị nguy cơ qua bản đồ số.
Điều đáng nói, tỉnh hiện không chỉ cậy nhờ vào kinh nghiệm mà tự đặt mình vào thử thách mới. Những phương án được điều chỉnh hàng năm; những người lính, dân quân được tập huấn không chỉ về sức mạnh, mà cả kỹ năng sơ cấp cứu, tâm lý cứu hộ.
Với ông Thành, một người đã trải qua hàng chục mùa lũ, chủ động không chỉ là dựng đê cao, mà còn là dạy dân cách lắng nghe tiếng nước, tiếng đất. Những thanh âm tưởng như thầm lặng của thiên nhiên, nhưng đủ để biết đêm nay dòng nước lũ lành hay dữ.
Để những điểm xung yếu thoát ‘vùng mù’ thông tin
Cách đây một thập kỷ, khi hỏi về đê điều, người ta nhắc nhiều đến những người “biết nghe đê thở” như cán bộ hưu trí Đặng Văn Luyện ở Thanh Hà, người chỉ cần giẫm chân xuống mặt đê là biết chỗ nào “thở dốc”. Nhưng khi tự nhiên ngày càng khó đoán, cần nhiều “ông Luyện” hơn ngoài thực địa. Đó có thể là các thế hệ tiếp nối, như ông Hùng, anh Tươi ở Hạt Quản lý đê điều Thanh Hà, và cũng có thể là từng tấc đê biết “kể chuyện” bằng dữ liệu.
Ông Nguyễn Trường Sơn, Phó Cục trưởng Cục Quản lý đê điều và Phòng, chống thiên tai khắc khoải giấc mơ ấy. Chẳng thế mà từ vài năm trước, đi tới đâu Cục cũng phối hợp, hướng dẫn cán bộ quản lý đê “số hóa”, bằng flycam bay dọc bãi sông để lấy hình phối cảnh từng đoạn đê cấp III trở lên, bằng kết nối hàng nghìn camera, trạm đo, cảm biến thủy văn… để mỗi dòng chảy nhỏ cũng không nằm ngoài tầm nhìn.

Ông Nguyễn Trường Sơn cho rằng, cần đẩy mạnh ứng dụng khoa học công nghệ vào cách quản lý đê điều, phòng chống thiên tai. Ảnh: Phạm Hiếu.
“Phải làm thế nào để điểm trọng yếu trên các tuyến đê không còn nằm trong vùng mù”, ông Sơn bày tỏ. Và thế là trong hệ thống dữ liệu quốc gia, mỗi đoạn kè, từng chiếc cống, kho vật tư cứ thế lần lượt hiện lên trên bản đồ WebGIS.
Nhờ gần 4.000 trạm đo khí tượng thủy văn, hơn 17.000 tàu cá được gắn định vị, 129 camera giám sát hồ chứa trên cả nước, và hàng loạt phần mềm theo dõi mực nước tại điểm xung yếu, mỗi lần nhấp chuột trong trung tâm chỉ huy là một lần hàng nghìn dữ liệu được truy xuất.
Trong mục tiêu lập bản đồ dữ liệu cho cả vùng đê bối (tuyến đê phụ bảo vệ khu vực sản xuất ngoài đê chính), ông Sơn hào hứng khoe rằng, bản đồ phân vùng nguy cơ lũ quét cả nước giờ đã đạt tỉ lệ 1:25.000 tại nhiều nơi, nghĩa là có thể chỉ rõ tới từng khe núi, từng cụm dân cư. Trong thời đại mà có tới 70% dân số sống ở vùng có nguy cơ thiên tai, mỗi tấm bản đồ ấy chính là tấm bùa hộ mệnh.
“Công trình cảnh báo sớm không thể ngăn mưa, nhưng có thể giúp dân kịp chạy”, ông Sơn nói như thể muốn cắt nghĩa, rằng phòng chống thiên tai giờ không còn là nhiệm vụ, là vấn đề của một ngành, mà là cam kết chính trị, là việc sống còn của quốc gia. Những bản đồ ngập lụt cấp tỉnh, kịch bản hồ chứa xả lũ, thậm chí cả fanpage thông tin thiên tai... đều là mảnh ghép để con người đi trước thiên nhiên một bước.

Riêng tại huyện Thanh Hà có 7 tuyến đê lớn cần bảo vệ. Ảnh: Phạm Hiếu.
Dù đây đó vẫn còn thiếutrạm khí tượng ven biển, vẫn chưa có chính sách rõ ràng huy động tư nhân tham gia chống sạt lở, vẫn còn mô hình dự báo chưa đủ chính xác, Việt Nam đang dần học cách sống chung với thiên tai - không phải cam chịu, mà là thích nghi chủ động.
Phía sau lớp biểu đồ và bảng số, là một quyết tâm âm thầm, nhưng quyết liệt: Không đợi mưa đến mới lo chống bão. Phương châm ấy đã thấm vào cách Cục Quản lý đê điều và Phòng chống thiên tai vận hành, vào từng lớp đất ven sông, vào những bài học đau thương từ bão Yagi và hàng nghìn cơn lũ nhỏ khác.
Giữa mùa khô, khi đất còn nứt nẻ dưới chân, người kỹ sư ngồi trước màn hình WebGIS như ông Luyện từng ngồi bên đê. Một người dùng thính giác, người kia dùng thuật toán, nhưng cùng chung một thao thức không để con đê thở gấp mà không ai nghe thấy.