Giờ đây mỗi sáng, dù đã nghỉ hưu, ông vẫn đều đặn trở lại triền đê. Không còn đi tuần như xưa, nhưng mắt ông vẫn dõi theo từng đám cỏ, từng vết nứt lẩn khuất dưới lớp đất khô. Với người dân Thanh Hà, hình bóng ông lom khom, gầy guộc vẫn lặng lẽ in dấu nơi những bờ đê tả Thái Bình, tả Gùa, hữu Văn Úc… như chưa từng rời đi.
Không chỉ là nguyên cán bộ Hạt Quản lý đê điều, ông Đặng Văn Luyện như một phần ký ức sống, một nhân chứng của những mùa nước dâng, những trận gió rít lộng và cả những đêm không ngủ vì con đê thở dốc.

Ông Đặng Văn Luyện đã gắn bó với công tác quản lý đê ngót nghét 40 năm. Ảnh: Bảo Thắng.
Từ giọt nước rỉ đến những trận lũ nhớ đời
Ngoài 60 tuổi, nhưng dáng người vẫn nhanh nhẹn, ông Luyện vẫn giữ nếp sinh hoạt cũ. Đôi mắt vừa nhìn ra xa xăm, vừa lặng lẽ quét một vòng như dò từng dấu lún đất. Có lúc, ông chỉ đứng nhìn, không nói gì. Thảng hoặc bắt gặp người quen trên con đê rộng vừa đủ cho 2 xe ô tô tránh nhau, ông mỉm cười khẽ như một lão nông không màng thế sự. Ấy thế mà ngay khi ai đó nhắc đến hai chữ “đê điều”, giọng ông lập tức biến đổi, vang lên rắn rỏi, sắc như lưỡi xẻng từng phập vào bao lớp đất ngày trước.
“Tôi chưa bao giờ nghĩ đời mình lại gắn bó trọn vẹn với những con đê như thế", ông nói, mắt hướng ra phía cống Gừng, thành quả của bao năm tu sửa, tôn tạo. Nơi ấy, từ năm 1983, ông đã lăn lộn với công tác tuần tra, xử lý sự cố và cả những buổi họp dài đúc kết bài học sau mỗi mùa lũ. Nhưng có lẽ, điều day dứt nhất với ông không phải là mệt nhọc, mà là nỗi ám ảnh đeo bám triền miên hết năm này sang tháng khác - nước tràn mặt đê.
Có năm, nước ngập bãi đến 3 tháng trời. Tận mắt, ông thấy mặt ruộng ngoài đê qua mỗi mùa lũ được bồi cao thêm tới 30cm đất. Có hôm, từ trên mặt đê nhìn xuống không thấy đâu là bến, bờ, nước như một biển mênh mông. Mọi âm thanh khi ấy đều bị gió nuốt mất, chỉ còn tiếng bước chân lún bùn và tiếng áo mưa phần phật.
Lại có những mùa mưa bão, mực nước dâng báo động cấp 3 kéo dài cả tuần. “Nước khi đó như bị bão hoà trong đất, cát. Mái đê nhão nhoét, đi là sụt chân, có khi không tìm lại được dép. Có hôm giữa trưa, gió lạnh táp vào mặt, người rét run lên dù là giữa hè. Gió ngoài đê thổi ràn rạt cấp 9, cấp 10, đứng còn không vững, nói chẳng nghe thấy. Cứ tưởng chừng bị hất bay khỏi triền đê ấy”, ông nhớ lại.

Ông Luyện: "Chưa bao giờ tôi nghĩ đời mình lại gắn bó trọn vẹn với những con đê như thế". Ảnh: Bảo Thắng.
Trong ký ức của “người bắt mạch đê” cần mẫn không chỉ có những cơn lũ thường niên, mà còn có cả những dấu mốc không thể nào quên. Nhớ lại trận vỡ đê Thanh Hồng hồi 1996, do ảnh hưởng của bão Niki (bão số 4) ông vẫn rung mình. Thời ấy, hệ thống cảnh báo và xử lý sự cố còn thô sơ, thông tin chủ yếu đến từ tai mắt của dân làng sống quanh đê.
“Họ chính là những người đầu tiên phát hiện mạch đùn sủi hay lỗ rò. Nhiều khi chỉ từ một vết nước rỉ nhỏ mà nếu không để ý sẽ thành họa lớn”, ông Luyện tâm sự.
Sau trận vỡ ấy, lực lượng quản lý đê điều như ông học được một bài học xương máu, đê không thể trông cậy vào kết cấu kỹ thuật đơn thuần. Phải có một hệ thống giám sát chặt chẽ, phải biết lắng nghe dân, và đặc biệt là kiểm tra định kỳ, kể cả vào những ngày nắng ráo nhất. Không thể đợi tới mùa mưa lũ, nước lên mới đi kiểm tra đê. Làm vậy có thể lỡ cơ hội vàng để gia cố đê.
Năm nào, ông cũng đề xuất đoàn đi bộ dọc các đoạn đê xung yếu. “Phải bước từng bước trên mặt đê, để phát hiện những chỗ lún, nứt hay mất kết cấu đất. Mắt thường, đôi khi lại là công cụ hiệu quả nhất”, ông kể rồi trầm ngâm, có năm nhờ phát hiện sớm một vết nứt nhỏ, mà địa phương đã tránh được nguy cơ vỡ đê trong gang tấc.
Không chỉ tuần tra, ông còn mạnh dạn đề xuất chính quyền xã bố trí lực lượng, thường xuyên phát quang cây cối mọc trên mặt trong đê. “Cây mọc um tùm vừa che khuất tầm nhìn, vừa ảnh hưởng đến kết cấu. Mình phải làm sao để đê không chỉ vững mà còn rõ ràng từng dấu vết nhỏ nhất”, ông bộc bạch kinh nghiệm và nói thêm, rằng cái nghiệp đeo bám ông quá nửa đời người đôi khi phải dùng… cả tai để phát hiện nguy cơ. Một tiếng nước chảy lạ dưới đê có thể còn giá trị hơn nhiều lần những bản thông báo chung cho cả khu vực.

Công việc quản lý đê điều càng trở nên cấp bách vào mùa mưa bão. Ảnh: Phạm Hiếu.
Gìn giữ cả một vùng quê
Những năm đầu thập niên 1990, thiếu thốn trăm bề. Ông Luyện kể, có nhiều đêm mưa tầm tã, cả xã thức trắng đắp đê chống lũ. Không máy móc. Bao tải đất lấy tại chỗ. Đèn dầu leo lét. Tiếng gọi nhau giữa gió lốc. Khi nước tràn, cả làng chỉ có vài chiếc xe công nông cũ, còn lại là vai người gánh đất. "Tôi nhớ một đêm năm 1993, riêng đoạn đê ở xã Thanh Hồng có đến mấy chục điểm rò. Chỉ cần chậm một bước là tan hoang cả vùng", ông kể.
Cũng chính từ những ký ức đó mà ông Luyện luôn đi đầu trong việc thử nghiệm những biện pháp xử lý sự cố, nhằm đáp ứng đúng tiêu chí “4 tại chỗ”. Ban đầu, ông hướng dẫn người dân dùng bao tải đựng cát, đất sét hoặc đất dẻo đắp kín chỗ rò. Nếu nhanh chân hơn, có thể trải thêm lớp rơm, cỏ khô hoặc vải bạt lên trên chỗ nước chảy ra, xong mới đề bằng bao cát lên trên. Làm được như vậy giúp giảm lực nước chảy, tránh kéo theo đất mịn, cát theo dòng chảy.
Nhưng chừng đấy không thấm vào đâu với những vết rò mạnh, không thể bịt hẳn. Thời buổi bao cấp khó khăn, phải nhờ mấy cấp cán bộ tạo điều kiện, ông mới được mục sở thị cách làm “giếng lọc ngược”. Quây lỗ sủi bằng phên tre hoặc nứa vòng trong cách vòng ngoài 20-30cm giữa bỏ đất thịt tạo thành giếng có bán kính cách lỗ sủi 50-60cm. Nếu mực nước lũ cao, thành giếng lọc cần nâng cao thêm sao cho chênh lệch đầu nước càng nhỏ càng tốt. Dùng nút rơm nút lỗ sủi rồi ép tấm phên lên. Trường hợp sủi mạnh, bỏ thêm một lớp đá dăm, gạch... dày 10-15cm để tăng lực ép tấm phên. Cuối cùng, bắc máng dẫn nước ra xa và xếp lớp lọc từ dưới lên gồm: cát thô dày 20cm, sỏi 20cm, đá dăm 20cm.
“Lúc đầu phổ biến, ai cũng ngại vì cách xử lý hơi mất thời gian. Nhưng tôi nói, nếu không dám làm, làm sao biết hiệu quả? Giờ thì mạch thấm đã có cách xử lý, không còn bó tay như trước”. Miệng nói tay làm, ông chứng minh bằng hành động. Kết quả, dòng nước chảy mạnh dưới chân đê giảm độ xiết, đất cát cũng không còn bị cuốn theo dòng nước dữ. “Hàm ếch” dưới đê cũng chẳng thấy bóng dáng.

Việc tu bổ mái đê cũng như kiểm tra mặt đê, các lỗ rò rỉ... phải thực hiện thường xuyên. Ảnh: Phạm Hiếu.
Mấy chục năm đi “nghe hơi thở của đê”, điều khiến ông Luyện tự hào nhất không phải những bằng khen treo trên tường, mà là việc xây dựng và nâng cao năng lực ứng trực tại chỗ cho đội tuần tra đê. Họ là người địa phương, sống ngay bên chân đê, hiểu từng mét đê như lòng bàn tay. “Giao cho họ trách nhiệm, tập huấn kỹ, trang bị đèn pin, bộ đàm… để khi lũ về, họ luôn là lực lượng đầu tiên có mặt”, ông bày tỏ.
Chiếc áo đồng phục màu xanh gắn bó giờ không còn nhưng sáng nào, người ta cũng thấy ông thấp thoáng nơi bờ đê. Với những cán bộ trẻ mới vào nghề, ông hay dặn: “Làm đê điều không phải việc thời vụ. Phải có tâm, phải có trách nhiệm. Đê mà hỏng là mất người, mất làng”.
Đứng giữa cánh đồng xanh rì, nơi con đê uốn lượn như một dải lụa, ông Luyện trầm giọng: "Hồi trước, mình sống vì đê. Giờ đê vẫn sống vì người. Mỗi mùa lũ qua là thêm một mùa yên lành, là thêm một lần biết rằng, công việc ấy không uổng".
Cuộc đời ông tưởng lặng lẽ, lại là một cuốn biên niên sử sống động về đê điều Thanh Hà. Ít ai ngờ, ở vùng trũng nhất của “ánh sáng từ biển cả”, nơi đất bồi, nước lở, không chỉ đê giữ làng, mà còn có người giữ đê bằng cả một thời thanh xuân.