
Hải Dương chịu thiệt hại nặng nề do bão Yagi và hoàn lưu bão. Ảnh: Phạm Hiếu.
Đêm đã về khuya, mưa càng ngày càng nặng hạt. Cơn bão số 3 của năm 2024 (Yagi) đổ bộ khu vực Quảng Ninh, Hải Phòng, sau đó lan rộng ảnh hưởng sâu vào miền Bắc, bao gồm cả tỉnh Hải Dương. Mặc dù không phải là nơi tâm bão đi qua nhưng hoàn lưu cực mạnh đã khiến nhiều địa phương của Hải Dương bị cuốn bởi gió mạnh, kèm theo là mưa lớn kéo dài.
Giữa màn mưa trắng trời và tiếng gió rít xé tai, ông Đỗ Chu Hùng, Hạt trưởng Hạt Quản lý đê huyện Thanh Hà, đứng chênh vênh trên mặt đê trơn trượt, áo mưa dán chặt vào người như lớp da thứ hai. Gió quật mạnh đến mức ông phải bám chặt cọc tiêu mới không bị cuốn đi.
Phía dưới chân đê, nước sông Thái Bình cuộn xoáy đen ngòm, dâng cao ngấp nghé mức tràn. Cảm giác như chỉ cần một nhịp vỡ, dòng lũ hung hãn kia sẽ nuốt chửng cả tuyến đê và vùng dân cư phía trong.
Mỗi bước chân là một quyết định sinh tử. Tai nghe điện thoại chỉ đạo vừa ngắt, mắt ông Hùng lập tức rà lại các vị trí xung yếu. Tin báo từ điếm canh, xuất hiện lỗ rò mới, thẩm lậu tăng nhanh ở đoạn đê trọng điểm.
Tim ông như thắt lại. Không còn thời gian để chần chừ, phải xử lý ngay! Tất cả mọi người lập tức lao vào trong mưa, không ai nói một lời, chỉ có tiếng đầm đất, tiếng xẻng chan chát va vào đá và tiếng lòng dồn dập của những người đang giữ lấy tuyến đê như giữ lấy sinh mạng của cả một vùng quê.
Nhớ lại thời điểm đợt lũ lịch sử “tấn công” những tuyến đê của huyện Thanh Hà, ông Hùng dường như lặng đi khi kể về những gì đã diễn ra. Ông cho biết, ngay sau bão, hệ thống đê điều trên địa bàn huyện lập tức bộc lộ hàng loạt điểm xung yếu, đặc biệt tại khu vực Hà Đông bao gồm 3 xã Vĩnh Cường, Thanh Hồng và Thanh Quang. Thiệt hại riêng về đê điều được thống kê lên tới khoảng 1.000 tỷ đồng.
Theo ông Hùng, tình hình đê điều lúc đó hết sức cấp bách. Mái đê đồng loạt xuất hiện 151 lỗ rò, tập trung nhiều tại tuyến đê tả sông Thái Bình, đoạn qua xã Thanh Hồng, đặc biệt nguy hiểm từ đoạn K53+000 đến K57+000. 6 đoạn đê bị tràn cục bộ, buộc lực lượng chức năng phải đắp trạch khẩn cấp với tổng chiều dài lên tới 2,7km.
Trong khi đó, gần 18km đê vẫn chưa đạt cao trình thiết kế, lại xuất hiện hiện tượng thẩm lậu, đùn sủi, sạt trượt phức tạp. 2 cống lớn là cống Thần và cống Đò Giải bị hư hỏng nghiêm trọng, tiềm ẩn nguy cơ mất an toàn.
Nhớ lại thời điểm ấy, ông Hùng cho biết, cùng với thiên tai khắc nghiệt, những bất cập nội tại của địa phương cũng khiến công tác ứng phó thêm phần gian nan, bị động. Vật tư truyền thống như rơm, tre, phên lứa… vốn là “cứu cánh” trong chống tràn gần như không còn.

Thiệt hại riêng về đê điều tại huyện Thanh Hà được thống kê lên tới khoảng 1.000 tỷ đồng. Ảnh: Phạm Hiếu.
Nhân lực tại chỗ vừa thiếu, vừa phân tán khi nhiều lao động đi làm xa, lực lượng thay thế thì thiếu kinh nghiệm, chưa từng qua tập huấn. Sau nhiều năm vắng bão lớn, kỹ năng ứng cứu cũng mai một, chỉ huy tại hiện trường nhiều lúc lúng túng, bị động.
“Hàng loạt cột điện, cây xanh, trạm viễn thông bị gãy đổ khiến toàn bộ hệ thống điện và thông tin liên lạc gần như tê liệt. Mọi chỉ đạo, điều phối và triển khai ứng cứu trên tuyến đê đều gặp vô vàn khó khăn trong thời điểm khẩn cấp, từ đó đẩy lực lượng tại chỗ vào tình thế đơn độc trong những giờ phút sinh tử với lũ”, ông Đỗ Chu Hùng nhớ lại, ánh mắt chợt trầm xuống như thể tất cả vừa xảy ra mới đây thôi.
Ngay lập tức, những biện pháp khẩn cấp đã được triển khai tại hiện trường để bảo vệ các đoạn đê xung yếu. Những đoạn đê tràn nhanh chóng được đắp trạch chống tràn, các lỗ rò được phát hiện và xử lý kịp thời nhờ công tác tuần tra, phát quang mái đê được tiến hành từ sớm.
Trên tuyến đầu, 328 chiến sĩ Quân đoàn 12, 81 cán bộ công an, cùng 360 người dân tại chỗ và 576 cán bộ tại 48 điếm canh đê đã không ngơi nghỉ, tay cuốc, tay xẻng, giữ đê suốt ngày đêm.
17 cán bộ Hạt Quản lý đê Thanh Hà, trong đó có 12 kiểm soát viên đê điều, đã túc trực 24/24h để trực tiếp chỉ đạo kỹ thuật, xử lý sự cố và tham mưu kịp thời lệnh xuất kho vật tư.
Huyện Thanh Hà hiện đang quản lý hệ thống đê điều với tổng chiều dài hơn 66 km, trong đó có trên 36 km là đê cấp 3 trở lên, còn lại gần 30 km là đê dưới cấp 4. Bên cạnh đó, huyện cũng có 25 tuyến kè với hơn 16 km mái kè lát đá hộ bờ, 39 cống qua đê, 3 cửa khẩu và 48 điếm canh đê. Hệ thống đê điều không chỉ đóng vai trò bảo vệ dân sinh và sản xuất mà còn là “xương sống” trong công tác phòng chống thiên tai tại địa phương.