Không chỉ ngon quả, mà còn ‘ngon đường’
Từ mùa vải này sang mùa vải khác, Thanh Hà không chỉ gặt hái bằng những chùm quả chín, mà bằng cả một hệ thống được chăm chút từ gốc. Đó là những con đường bê tông len lỏi tới từng vùng trồng vải, những trạm điện 3 pha được đấu nối về sát vườn, những điểm cân và kho làm đá được đặt sao cho thuận lợi vận chuyển nhất.
Từng chút một, người Hải Dương muốn đưa cảnh "được mùa, mất giá" hay "vướng xe, kẹt lô hàng" vào dĩ vãng. Thay vào đó, hệ thống hạ tầng được xây dựng đồng bộ, trở thành một phần không thể thiếu của chuỗi giá trị nông nghiệp.
Tại sự kiện mở vườn vụ vải thiều mới, ông Trần Văn Quân, Phó Chủ tịch UBND tỉnh Hải Dương khẳng định: “Hải Dương không chỉ có vải ngon, mà có cả hạ tầng để đưa vải đến đúng nơi, đúng lúc, đúng yêu cầu”. Một lời phát biểu ngắn nhưng mang đúng trọng tâm cốt lõi của ngành nông nghiệp địa phương thời gian qua. Phát triển nông nghiệp hôm nay không thể chỉ nhìn vào đất đai, vào nắng, gió, mà phải tính tới từng đoạn đường, từng cột điện, từng khâu bảo quản sau thu hoạch.

Ông Trần Văn Quân (phải) thăm vườn vải thiểu Thanh Hà tại sự kiện mở vườn. Ảnh: Bảo Thắng.
Tinh thần ấy đang được lan tỏa từ chính quyền tới từng hộ trồng vải ở huyện Thanh Hà. Những lớp tập huấn về GlobalGAP, VietGAP được tổ chức định kỳ, đều đặn, nội dung phù hợp với từng mùa vụ. Các buổi khảo sát đồng ruộng không thiếu vắng bất cứ mắt xích nào trong chuỗi, từ xã đến huyện, từ nông dân đến doanh nghiệp, từ cán bộ thủy nông đến khuyến nông. Mỗi bước đi đều hướng đến mục tiêu cao nhất: giúp trái vải “ngon từ vị đến hành trình”.
Bà Nguyễn Thị Lụy, thôn Thanh Lanh, xã Thanh Quang có lẽ thấm thía hơn ai hết việc có tuyến đường bê tông, đủ sức “cõng” xe tải 5 tấn từ thôn ra tỉnh lộ 390 ý nghĩa lớn nhường nào. Trước đây, bà con trong thôn thường lèn chặt 2 sọt vải thiều, rồi chuyên chở bằng xe máy ra ngoài đường lớn. Trời nắng còn đỡ, chứ những hôm mưa gió thì đúng là cực hình. Con đường bằng đất, nhão nhoét, thỉnh thoảng tới khúc cua gấp là người chở phải rà thêm “phanh chân” cho xe bớt nghiêng.
Ấy vậy mà chưa hết. Vì chở dưới trời mưa, nên lúc vải xuống điểm tập kết thường bị ngấm thêm nước. Đưa sọt lên cân, thường phải trừ hao đi một lượng. Cũng chẳng biết đúng sai thế nào, chỉ biết ước lượng cho nhanh bởi cân xong là bà phải nhanh tay trút từng sọt lớn ra sơ chế, vệ sinh sạch sẽ, tránh để nước mưa làm hỏng mã quả vải.

Bà Nguyễn Khánh Vy, Công ty Senkyu chia sẻ về thị hiếu của người tiêu dùng Nhật Bản qua hội nghị trực tuyến. Ảnh: Bảo Thắng.
Nghe chuyện xưa như cổ tích lại càng thấm thía rằng, hạ tầng không chỉ là nền móng vật chất, mà còn là cam kết chính trị và sự đồng hành lâu dài của chính quyền với người dân, doanh nghiệp. Khi những chùm vải thiều Thanh Hà bắt đầu đỏ lửa trên triền sông Thái Bình, đó không chỉ là tín hiệu của mùa thu hoạch, mà còn là lúc thực chứng những nỗ lực bền bỉ trong suốt cả năm.
Năm nay, một tâm thế mới đang nhen nhóm ngay giữa Thanh Hà. Sản lượng không còn là niềm tự hào duy nhất của những người một nắng hai sương. Thay vào đó, người ta nhắc nhiều hơn đến một hệ sinh thái nông sản được đầu tư bài bản, đồng bộ từ hạ tầng thu mua đến điện, nước, giao thông tại các vùng chuyên canh.
Một chiến lược nông nghiệp gắn kết từ đất đến người
Nếu hạ tầng là gốc rễ giúp trái vải trụ vững, thì xúc tiến thương mại chính là đôi cánh để vải thiều bay xa. Một thời, người trồng vải sống trong tâm thế bị động, được mùa lo mất giá, xuất khẩu trông chờ vào thương lái. Nhưng Thanh Hà hôm nay đã khác. Họ không còn sản xuất theo “ý mình”, mà theo “yêu cầu thị trường”.
Những mã số vùng trồng, trạm chiếu xạ, kho lạnh không còn là hạng mục đầu tư, liên kết riêng lẻ, mà là cấu phần bắt buộc của một chiến lược chủ động. Đây là sự chuyển mình từ nông dân đơn lẻ sang vai trò mắt xích, từ sản phẩm mùa vụ sang chuỗi giá trị bài bản. Sự chuyển dịch ấy không còn bó hẹp ở kỹ thuật mà là thành quả của cả một tư duy phát triển.
Đồng hành cùng Thanh Hà còn là hệ thống thương vụ ở nước ngoài. Ông Tống Bá Luân, Trưởng Chi nhánh Thương vụ Việt Nam tại San Francisco (Hoa Kỳ) gợi mở cơ hội từ chính cộng đồng người Việt tại bờ Tây, nơi “mỗi siêu thị châu Á là một cánh cửa nhỏ dẫn vào thị trường lớn”. Nhưng đi kèm đó là yêu cầu khắt khe, sản phẩm phải có video truy xuất nguồn gốc, bao bì in ngôn ngữ bản địa và đặc biệt là câu chuyện thương hiệu được kể đúng cách.
Câu chuyện ấy, ở mỗi quốc gia, cần được viết lại bằng ngôn ngữ của địa phương. Tại Nhật Bản, một thị trường chuộng sự tinh tế, bà Nguyễn Khánh Vy, Công ty Senkyu nhấn mạnh: “Người Nhật không chỉ quan tâm vị ngọt, mà còn muốn biết ăn khi nào, ăn với gì”. Vải thiều, nếu muốn hiện diện trên bàn ăn của tầng lớp trung lưu Nhật, cần được dẫn dắt như một trải nghiệm ẩm thực, chứ không chỉ là trái cây nhiệt đới.

Bà Nguyễn Thị Lụy, thôn Thanh Lanh, xã Thanh Quang, người dân trồng vải thiều lâu năm. Ảnh: Linh Linh.
Nhưng xúc tiến thương mại với Thanh Hà không dừng ở hội nghị hay hội chợ. Lễ mở vườn vải thiều giờ đây trở thành sự kiện văn hóa, nơi doanh nghiệp như Melap giới thiệu những cây vải cổ hàng chục năm tuổi đến du khách quốc tế trong chuỗi khách sạn 5 sao. “Vải Thanh Hà không chỉ là nông sản, mà còn là hương của những mùa hè cũ, là tinh thần của vùng đất trù phú này”, ông Nguyễn Ngọc Quý, Phó Tổng giám đốc Melap chia sẻ. Theo lời ông, nếu biết cách dẫn dắt, kể chuyện, những trái vải thiều có thể mang theo cả một miền ký ức đến tận Tokyo hay Praha.
Thanh Hà không đi một mình. Và chính bởi vậy, từng trái vải hôm nay không chỉ ngọt trên đầu lưỡi, mà còn đậm đà vị của một chiến lược bài bản, đồng hành và bền vững. Bên cạnh những thuận lợi, vẫn còn nhiều thách thức: chi phí chiếu xạ, bảo quản lạnh, rào cản logistics, nhiều đối thủ cạnh tranh mới nổi... Nhưng điều làm nên khác biệt vẫn là sự chủ động kết nối các mắt xích, từ gốc rễ hạ tầng đến nhánh lá thương vụ, từ người trồng đến người dẫn đường quốc tế.
Bà Hoàng Thị Thúy Hà, Phó Chủ tịch UBND huyện Thanh Hà, nhìn nhận: “Mỗi vụ vải là một mùa kích cầu. Làm tốt mùa vải thiều không chỉ giúp người trồng, mà còn đánh thức tiềm năng thương mại, dịch vụ và du lịch địa phương”. Với chính quyền, trái vải không chỉ là một sản phẩm nông nghiệp, mà là biểu tượng cho thương hiệu vùng miền, là cơ hội đầu tư hạ tầng, logistics, nâng tầm địa phương trong mắt nhà đầu tư quốc tế. Bà cũng gửi gắm kỳ vọng, rằng các thương vụ không những là “người mở cửa”, mà còn là “người kể chuyện” cho trái vải Việt. Để trái ngọt không chỉ có chỗ đứng, mà còn có tiếng nói.
Mỗi trái vải hôm nay vừa là kết tinh của nắng gió, vừa là bản "tuyên ngôn" phát triển từ một vùng đất biết trân quý căn cơ, từ đường, điện, đến câu chuyện thương hiệu được kể bằng đa ngôn ngữ, qua nhiều thế hệ.