Mỗi vùng một “con mục tiêu”
Giai đoạn 2015-2017, tỉnh Bình Thuận (cũ) thí điểm giao quyền tạm thời cho cộng đồng quản lý vùng biển.
“Lúc ấy chỉ là bước thử thôi nhưng thành công ngoài mong đợi. Cả một vùng biển như được hồi sinh”, ông Huỳnh Quang Huy, Phó Chi cục trưởng Chi cục Thủy sản và Biển đảo (Sở Nông nghiệp và Môi trường tỉnh Lâm Đồng), Chủ tịch Hội Nghề cá Bình Thuận, nhớ lại.
Chia sẻ về tiếp cận khuyến ngư, ông Huy cho biết, cán bộ kỹ thuật quan điểm mỗi vùng biển đều có một “con mục tiêu”. Tiếp cận với cộng đồng, theo ông Huy, không thể bắt đầu bằng những khẩu hiệu xa lạ như “bảo vệ nguồn lợi thủy sản” vì người dân sẽ không cảm được điều đó.
“Mình phải hỏi họ: Hồi xưa ở đây nhiều con gì? Có người trả lời là sò lông hồi đó nhiều như núi, giờ thì móc từng con cũng khó. Từ ký ức ấy mới bắt đầu kêu gọi cộng đồng giữ lại con sò lông”, ông cho hay.

Nguồn lợi sò lông dồi dào sau khi người dân áp dụng các kỹ thuật tái tạo. Ảnh tư liệu.
Khu vực Tân Thành - Hàm Thuận Nam bãi ngang ven biển với chiều dài đường bờ biển khoảng 23,5 km. Theo các kết quả nghiên cứu của Viện Hải dương học, nơi đây được đánh giá là giàu về nguồn lợi thủy sản, đồng thời khu vực này cũng hình thành nhiều bãi đẻ và sinh trưởng của các giống loài thủy sản có giá trị kinh tế cao như nhuyễn thể hai mảnh vỏ (sò lông, dòm nâu, nghêu lụa, ốc hương,…), các loại mực (mực nang, mực ống, bạch tuộc,…), các loại cá rạn, cá nổi.
Khi xác định đúng “con mục tiêu” của mỗi vùng, việc bảo vệ trở thành nỗ lực cộng đồng, giúp họ nhận ra mối liên hệ giữa một cá thể và cả hệ sinh thái.
Một trong những giải pháp chính góp phần hồi sinh vùng biển Bình Thuận là mô hình thả rạn nhân tạo. Rạn nhân tạo giúp đánh dấu vùng biển được thực hiện đồng quản lý; ngăn chặn nghề lưới kéo tận diệt; tạo nơi cư trú, sinh sản cho các loài sinh vật biển.
Nỗ lực của địa phương cũng làm thay đổi suy nghĩ, nhận thức của người dân: trước đây, họ quan niệm nguồn lợi là do ông trời sinh ra và chỉ biết khai thác mà không có khái niệm bảo vệ và giữ gìn; nay họ đã bắt đầu hành động và xem việc bảo vệ nguồn lợi là trách nhiệm của mình.
Sau vài năm, cỏ biển bắt đầu mọc lại, rong, san hô, sò, ốc lần lượt trở về, phủ xanh những lớp đáy trơ trụi từng bị tàn phá. Rồi từng đàn cá nhỏ, cá lớn lũ lượt kéo tới. Khu khảo sát ban đầu là vùng nước trống trơn, không một sinh vật nào. Vậy mà sau một năm đã có hơn 400 cá thể/m2; sau hai năm, con số tăng lên hơn 800 cá thể/m2.
Quan trọng hơn, sự hợp tác đã mở ra một cơ chế phối hợp giữa người dân và các ban ngành chức năng, khi Nhà nước chia sẻ trách nhiệm còn cộng đồng thì khơi dậy niềm tin và quyết tâm gìn giữ biển cả như một phần máu thịt của mình.
Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả tích cực, ông Huy cũng thẳng thắn nhìn nhận: tổ chức cộng đồng vẫn đang trong quá trình kiện toàn và ổn định, trình độ và năng lực của Ban điều hành các Hội còn hạn chế. Một số thành viên trong cộng đồng vẫn còn tâm lý e dè, lo ngại xảy ra xung đột giữa các nhóm nghề, nên chưa mạnh dạn tham gia hoặc tham gia nhưng chưa thể hiện rõ vai trò và trách nhiệm.

Sử dụng lồng đá là một trong 5 phương pháp thả rạn nhân tạo được các cộng đồng ven biển Lâm Đồng áp dụng để phục hồi tầng đáy biển. Ảnh: Phương Linh.
Ngư dân cần được nâng cao năng lực
Không giáo viên bục giảng, không bảng đen phấn trắng. Những buổi học ở làng chài là những buổi chia sẻ, cùng nhìn bản đồ, bàn cách đánh dấu tọa độ, phối hợp chống giã cào, xử lý vi phạm. Họ không đọc chữ, không theo giáo án, chỉ nói chuyện với nhau, trao đổi từ kinh nghiệm thật để cùng hiểu, cùng hành động.
“Chúng tôi sẵn sàng học hỏi, tiếp tục nâng cao năng lực. Không chỉ để tái tạo nguồn lợi biển, mà còn để ứng phó tốt hơn với các tình huống xử lý vi phạm tàu cá IUU”, nhóm ngư dân đồng lòng bày tỏ.
Bởi lẽ, dù có sự hậu thuẫn của các cơ quan chức năng nhưng khi ở ngoài khơi, đối mặt với các tình huống xấu, người dân vẫn cần biết cách bảo vệ chính mình. Tinh thần “dám học, dám thay đổi” đã âm thầm lan tỏa trong cộng đồng ngư dân Bình Thuận từ nhiều năm nay.
Ông Đậu Trọng Trung, Chủ tịch Hội cộng đồng ngư dân Tân Thành, cho rằng, sau sáp nhập, người dân càng cần thay đổi tư duy. “Trước đây chỉ lo phần mình. Giờ phải nhìn rộng hơn, chia sẻ vùng biển, hợp tác giám sát, nghĩ cho tương lai. Người dân ít chữ, nhưng không thiếu trí. Khi được tiếp cận đúng cách, họ tiếp thu rất nhanh”, ông Trung nói.
Không ít trường hợp, chính các ngư dân lớn tuổi lại là người truyền cảm hứng cho lớp trẻ. Từ trong những buổi nói chuyện ấy, các ý tưởng mới nảy sinh: xây dựng mô hình du lịch cộng đồng, làm sinh kế thay thế mùa biển động, liên kết với nhà khoa học để bảo vệ hệ sinh thái ven bờ. Tất cả đều khởi nguồn từ tri thức và tinh thần cùng nhau học tập.
Từ những buổi học đầu tiên, ngư dân bắt đầu lập nhật ký biển, chia nhau tuần tra, viết đề xuất gửi xã. Xuất hiện các nhóm trẻ lập bản đồ vùng khai thác, viết hướng dẫn bảo vệ rạn san hô, dựng phao báo hiệu vùng cấm. Nhiều người trở thành “giảng viên cộng đồng” tổ chức nhóm nhỏ nói lại cho bà con trong xóm. Biển như đang hồi sinh từ trong lòng người.

Ngư dân Tân Thành dân sẵn sàng học hỏi để tái tạo nguồn lợi biển và ứng phó tốt hơn với các tình huống xử lý vi phạm tàu cá trên biển. Ảnh: Trần Phi.
Ông Lê Thành, Phó Trưởng nhóm giám sát IUU của Hội cộng đồng ngư dân Tân Thành, chia sẻ: “Đi biển quen rồi, nhưng hiểu luật, hiểu sinh thái thì tôi thiếu lắm. Nếu mình không học, sau này biết trông vào ai?”. Trước mặt ông là cuốn sổ tay ghi chép đầy đủ: luật pháp liên quan đến IUU, quy ước đồng quản lý, nguyên tắc đánh bắt đúng mùa, cách định vị tọa độ.
Những thay đổi vô hình đang mang lại kết quả: xung đột ngư trường giảm, vi phạm vùng cấm ít dần. Ngư dân không còn thụ động, mà chủ động ghi nhận, phản ánh, phối hợp với kiểm ngư. Khi có giã cào gần bờ, bà con biết báo cáo chính quyền, quay tư liệu và phối hợp lập biên bản xử lý vi phạm.
Biển hôm nay không còn dữ dội như những ngày bão, nhưng vẫn chịu tổn thương. Và chính từ những lớp học bên làng chài, những đổi thay lớn đang hình thành. Những người từng nghĩ rằng “đời ngư dân thì chỉ biết lưới cá” giờ hiểu: học không phải để làm thầy, mà để làm chủ chính vùng biển của mình. Và học là để giữ nghề, giữ làng, giữ biển cho mai sau còn cá mà sống, còn biển mà nối nghiệp.
Chẳng ai có thể giữ biển một mình. Sức mạnh đến từ cộng đồng, từ sự đồng lòng của những con người gắn bó với sóng nước. Những lớp học nơi làng chài nhỏ bé ấy chính là minh chứng cho tinh thần ấy: nơi người dân không chờ đợi giải pháp từ trên, mà chủ động hành động từ dưới.
Nếu ai hỏi rằng “biển có còn hy vọng không?” thì câu trả lời đã vang lên rõ ràng từ chính những buổi học giản dị, nơi ngư dân chọn học để thay đổi, chọn hiểu để gìn giữ, và chọn biển như cách gìn giữ chính cuộc sống mình.