Ngày 20/12 tại phường Nha Trang (Khánh Hòa), Trung tâm Khuyến nông Quốc gia phối hợp với Trung tâm Dịch vụ nông nghiệp tỉnh Khánh Hòa tổ chức thảo luận hướng dẫn khôi phục sản xuất thủy sản sau mưa lũ tại tỉnh Khánh Hòa. Đây là diễn đàn để các nhà khoa học, doanh nghiệp và ngư dân thống nhất các giải pháp kỹ thuật cấp bách nhằm tái thiết sản xuất bài bản và an toàn.
Đại diện Trung tâm Khuyến nông Quốc gia tặng cuốn sách về giải pháp kỹ thuật giúp bà con khôi phục sản xuất sau mưa lũ. Ảnh: KS.
Giải pháp kỹ thuật phục hồi môi trường
Đợt mưa lũ vừa qua đã gây thiệt hại nặng nề cho các tỉnh miền Trung, trong đó có tỉnh Khánh Hòa. Sau mưa lũ, Trung tâm Dịch vụ nông nghiệp tỉnh Khánh Hòa đã nhanh chóng triển khai các hoạt động tại chỗ để giảm thiểu rủi ro và chuẩn bị cho vụ nuôi mới. Song song với việc ổn định tổ chức, đơn vị đã trực tiếp đánh giá thực trạng tại các vùng nuôi bị ảnh hưởng, từ đó đưa ra những khuyến cáo kỹ thuật kịp thời cho người dân.
Ở cấp độ quy mô hơn, Trung tâm Khuyến nông Quốc gia đã chủ động xây dựng các mô hình khôi phục sản xuất và hướng dẫn giải pháp kỹ thuật thích ứng với biến đổi khí hậu.
Theo ông Lê Ngọc Quân, Phó Trưởng phòng Khuyến ngư và Nông nghiệp Nông thôn (Trung tâm Khuyến nông Quốc gia), Trung tâm còn đóng vai trò cầu nối huy động nguồn lực xã hội để hỗ trợ các tỉnh Nam Trung bộ thông qua việc hướng dẫn quy trình phục hồi, đào tạo tập huấn, thông tin truyền thông và cùng các doanh nghiệp trao tặng nhiều vật tư thiết yếu.
Nuôi trồng thủy sản trên địa bàn tỉnh Khánh Hòa. Ảnh: KS.
Tại buổi thảo luận, ThS Lê Thành Cường (Viện Nuôi trồng thủy sản, Trường Đại học Nha Trang) đã chia sẻ các giải pháp phòng trị bệnh thủy sản nhằm ứng phó với thời tiết bất lợi sau mưa lũ. Ông Cường nhấn mạnh ngư dân cần đặc biệt lưu ý kiểm soát các chỉ số môi trường như pH, độ mặn và oxy hòa tan để ứng phó kịp thời. Đồng thời tiến hành xử lý nguồn nước bằng các hóa chất được phép để tiêu diệt mầm bệnh. Song song đó, bổ sung vitamin và khoáng chất vào khẩu phần ăn hằng ngày giúp nâng cao sức đề kháng cho thủy sản nuôi trong giai đoạn môi trường còn biến động.
Song song với phòng bệnh, Công ty TNHH Thủy sản Tâm Việt đã giới thiệu ứng dụng quy trình sinh học trong nuôi tôm, mở ra hướng đi hiệu quả cho ngành tôm. Giải pháp này tập trung vào việc sử dụng các dòng vi khuẩn có lợi để ổn định hệ vi sinh vật ao nuôi, ức chế vi khuẩn gây bệnh Vibrio và phân hủy mùn bã hữu cơ tích tụ sau bão lũ. Việc tạo môi trường nuôi sạch tự nhiên không chỉ giúp người dân giảm thiểu rủi ro dịch bệnh mà còn hạn chế thấp nhất việc sử dụng hóa chất, đảm bảo các tiêu chuẩn khắt khe về an toàn sinh học.
Hải sâm cát - máy lọc sinh học
Điểm sáng trong chiến lược phục hồi lâu dài là giải pháp phát triển nuôi hải sâm cát thân thiện với môi trường do TS Nguyễn Đình Quang Duy, Viện Nghiên cứu Nuôi trồng thủy sản III (gọi tắt là Viện III) trình bày.
TS Nguyễn Đình Quang Duy, Viện Nghiên cứu Nuôi trồng thủy sản III. Ảnh: KS.
Hải sâm cát không chỉ là thực phẩm có hàm lượng dinh dưỡng cao với giá từ 200 - 400 USD/kg khô mà còn được ví như máy lọc sinh học đặc biệt cho nền đáy. Với phương thức bắt mồi thụ động qua việc lọc nước và lọc cát, hải sâm cát ăn các chất mùn bã hữu cơ và vi sinh vật trong trầm tích, giúp cải thiện môi trường ao nuôi rõ rệt. Loài này phù hợp với nhiệt độ từ 25 - 33 độ C và độ mặn dao động từ 26 - 35‰.
Theo TS Nguyễn Đình Quang Duy, hiện Viện III đã làm chủ công nghệ nhân giống nhân tạo hải sâm cát bằng phương pháp kích thích nhiệt kết hợp bổ sung tảo khô Spirulina. Tỷ lệ sống từ giai đoạn ấu trùng đến con giống đạt mức 10%, trong khi việc ương nuôi con giống trong giai lưới tại ao có thể đạt tỷ lệ sống lên đến 50% nhờ tận dụng nguồn thức ăn tự nhiên. Kết quả từ các mô hình khuyến nông tại Khánh Hòa và Phú Yên (cũ) cho thấy hải sâm đạt kích cỡ thương phẩm trên 300gram sau khoảng 7 tháng nuôi, năng suất đạt từ 2,6 - 2,8 tấn/ha, mang lại tỷ suất lợi nhuận ổn định từ 46 - 80%.
Đột phá nuôi ghép đa tầng
Hiện nay, mô hình nuôi ghép hải sâm cát với các đối tượng giá trị khác như ốc hương và cá chim vây vàng đã tối ưu hóa được hệ sinh thái ao nuôi. Trong mô hình nuôi kết hợp, hải sâm tận dụng lượng chất thải hữu cơ từ thức ăn thừa của ốc hương và cá chim để tăng trưởng, giúp giảm thiểu hàm lượng nitơ tổng số và ô nhiễm trầm tích. Nghiên cứu cho thấy tốc độ tăng trưởng tuyệt đối của hải sâm trong nuôi kết hợp cao hơn khoảng 37% so với nuôi đơn, đồng thời giúp cá chim vây vàng tăng trọng thêm 11,6%.
Viện III đã làm chủ công nghệ sản xuất giống hải sâm cát. Ảnh: KS.
Tại Quảng Ngãi, sau 7 tháng thả nuôi 1.650 con hải sâm cát và 462 nghìn con ốc hương trên 1.500m2, mô hình nuôi ghép này đã cho tỷ lệ sống của ốc hương đạt 70% và hải sâm từ 80 - 85%, khẳng định tính khả thi của phương pháp nuôi đa tầng quy mô thương mại.
Để bảo đảm đầu ra bền vững, từ năm 2021, Viện III cùng Công ty Cổ phần Hải sâm Việt Nam đã phối hợp với ngư dân huyện Vạn Ninh và thị xã Ninh Hòa (cũ) xây dựng chuỗi liên kết giá trị khép kín. Theo đó, Viện III cung cấp cấp giống, hướng dẫn kỹ thuật cho người nuôi, còn doanh nghiệp bao tiêu sản phẩm để phục vụ nhà máy chế biến hiện đại công suất 900 tấn mỗi năm.
Định hướng trong thời gian tới, Viện III sẽ nghiên cứu xây dựng đàn hải sâm bố mẹ chất lượng cao đủ cung cấp cho các trại sản xuất giống đạt chuẩn và hoàn thiện quy trình nuôi thương phẩm phù hợp cho từng vùng, từng địa phương. Doanh nghiệp sẽ phát triển các dòng sản phẩm giá trị gia tăng như hải sâm ăn liền, thực phẩm chức năng và mỹ phẩm để xây dựng thương hiệu hải sâm quốc gia. Sự kết hợp giữa khoa học và sự đồng hành của doanh nghiệp chính là điểm tựa vững chắc để ngư dân Khánh Hòa vượt qua thiên tai và hướng tới nghề nuôi biển bền vững.
Dịp này, đại diện Trung tâm Khuyến nông Quốc gia cùng doanh nghiệp đã tặng trên 30 suất quà cho các ngư dân tham dự gồm cuốn sác về giải pháp kỹ thuật nhằm thích ứng và giảm thiểu thiệt hại do các loại hình thiên tai trong sản xuất thủy sản và vật tư phục trong nuôi tôm.































