Nông dân phải biết khi nào đất đang “ốm yếu”
Trong khuôn khổ Diễn đàn “Sức khỏe đất trồng lúa - Nền tảng phát triển xanh và bền vững” do Viện Thổ nhưỡng Nông hoá phối hợp với Hiệp hội Ngành hàng lúa gạo Việt Nam và Báo Nông nghiệp Môi trường tổ chức ngày 29/10, các đại biểu đã dự tọa đàm với chủ đề “Đất khỏe - Gạo Việt xanh”, trong đó có phiên thảo luận về liên kết trong phục hồi và nâng cao sức khỏe đất trồng lúa hướng tới nền nông nghiệp xanh và bền vững.
Tọa đàm “Đất khỏe - Gạo Việt xanh” trong khuôn khổ Diễn đàn “Sức khỏe đất trồng lúa - Nền tảng phát triển xanh và bền vững”. Ảnh: Linh Linh.
Theo bà Lương Thị Kiểm, Phó Giám đốc Sở Nông nghiệp và Môi trường Hải Phòng, không chỉ riêng Hải Phòng, nhiều địa phương khác đang thực sự đối mặt với nguy cơ “đất yếu”, đất sản xuất đang “mệt mỏi” sau nhiều năm thâm canh và những vụ mùa nối tiếp nhau không ngừng nghỉ.
Chia sẻ câu chuyện ở tỉnh Hải Dương (cũ), bà Kiểm nhắc về thời gian khi phong trào trồng dưa hấu, dưa lê rộ lên mạnh mẽ, đem lại thu nhập cao cho người dân. Thế nhưng bỗng một ngày, những ruộng dưa bị vàng lá rồi chết hàng loạt. Nghĩ cây thiếu chất, người dân lại tăng phân bón, thuốc bảo vệ thực vật, nhưng vườn dưa vẫn lụi tàn dần. Chỉ đến khi xét nghiệm, người dân mới nhận ra rằng đất đã thật sự “ốm yếu” khi hữu cơ cạn kiệt, pH giảm sâu, hệ sinh vật đất gần như bị xóa sạch.
“Đến lúc ấy, chúng tôi hiểu rằng không thể cứu cây khi đất đã yếu. Muốn cây khỏe phải bắt đầu từ việc hồi sinh sức khỏe đất. Từ nhận thức ấy, địa phương bắt đầu thay đổi cách tiếp cận vấn đề, chú trọng cải tạo đất, phục hồi sinh lực cho đất như chăm người bệnh”, bà Kiểm bộc bạch.
Theo bà Kiểm, câu chuyện của Hải Phòng cũng mang một thông điệp mang tính cấp bách hơn. Đó là các cơ quan quản lý, chính quyền địa phương, cán bộ chuyên môn cần giúp cả xã hội, đặc biệt là nông dân - những người trực tiếp gắn bó với ruộng đồng hiểu rõ vai trò then chốt của sức khỏe đất trong sản xuất.
“Ở Hải Phòng, người dân có thu nhập cao từ nông nghiệp, đặc biệt là trên diện tích lớn rau vụ đông, nhận thức đúng về sức khỏe đất chính là nền tảng cho một nền nông nghiệp xanh, hiệu quả và lâu bền”, bà Lương Thị Kiểm nhấn mạnh.
Bà Lương Thị Kiểm chia sẻ về câu chuyện cải thiện sức khỏe đất tại Hải Phòng. Ảnh: Linh Linh.
Đồng quan điểm với bà Kiểm, ông Vũ Năng Dũng, Chủ tịch Hội Khoa học đất Việt Nam cho rằng, câu chuyện về sức khỏe đất không chỉ dành cho các nhà khoa học mà trước hết phải đến được với người dân - những người mỗi ngày cày xới, gieo trồng và nuôi sống đất bằng chính đôi tay mình.
“Lực lượng cần hiểu rõ nhất về sức khỏe đất là nông dân, là nhà quản lý và doanh nghiệp. Nhưng quan trọng nhất vẫn là nông dân. Họ phải hiểu đất của mình khỏe hay yếu, đặc biệt là với những diện tích đất trồng những cây chủ lực”, ông Dũng bày tỏ.
Theo ông Dũng, trong suốt thời gian dài, chúng ta đã thâm canh quá mức, đặc biệt là với cây lúa, khiến đất bị khai thác nhiều hơn, nhanh hơn khả năng tự hồi phục. Dinh dưỡng trong đất bị mất cân bằng, cấu trúc đất suy yếu, hệ sinh thái đất nghèo nàn hơn trước. So với những thửa ruộng ngày xưa, đất hôm nay đã “mệt mỏi” hơn, ít mùn, ít sinh khí, hệ sinh thái trong đất cũng không còn.
Việc thâm canh lúa quá mức trong thời gian dài khiến đất bị khai thác nhiều hơn, nhanh hơn khả năng tự hồi phục. Ảnh: Lê Hoàng Vũ.
Ông Dũng cho rằng, để phục hồi sức khỏe đất, phải có một tầm nhìn dài hơi, một chiến lược mang tính thế hệ. Cốt lõi của chiến lược đó là trả lại cho đất những gì đất đã cho đi, tái tạo chất hữu cơ, cân bằng độ pH, nuôi dưỡng lại hệ sinh thái đất. Từ đó nông nghiệp mới có thể chuyển mình theo hướng hữu cơ, giảm phát thải. Cần tận dụng tốt hơn phế phụ phẩm nông nghiệp, từng bước đáp ứng yêu cầu khắt khe của thị trường trong và ngoài nước.
Đặc biệt nhấn mạnh đến vùng trung du và miền núi phía Bắc - nơi còn giữ được nhiều cánh đồng lúa lớn, canh tác tốt, là vùng sinh thái quan trọng cho ngành lúa gạo, ông Dũng khuyến cáo: “Nếu những cánh đồng ấy mất đi, đó sẽ là tổn thất lớn không chỉ về kinh tế mà còn về di sản của ngành nông nghiệp. Vì vậy, rất cần có các chương trình chuyên biệt để nâng cao chất lượng và sức khỏe đất trồng lúa tại khu vực này”.
“Khám sức khỏe" định kỳ cho đất
Theo bà Nguyễn Thị Thu Hương, Phó Cục trưởng Cục Trồng trọt và Bảo vệ thực vật (Bộ Nông nghiệp và Môi trường), sức khỏe đất là yếu tố cốt lõi, quyết định sự phát triển bền vững của ngành trồng trọt và bảo vệ thực vật. Bà Hương cho rằng, đã đến lúc cần sự chuyển đổi mạnh mẽ trong nhận thức, truyền thông để xã hội thực sự hiểu đất là nguồn tài nguyên quý giá nhưng không vô tận và không thể thay thế.
Bà Nguyễn Thị Thu Hương nhấn mạnh sức khỏe đất là yếu tố cốt lõi quyết định sự phát triển bền vững của ngành trồng trọt và bảo vệ thực vật. Ảnh: Linh Linh.
Thực tế hiện nay, không chỉ người dân mà cả một bộ phận cán bộ địa phương vẫn chưa nhìn nhận đúng giá trị của đất trong sản xuất nông nghiệp. Tình trạng lạm dụng phân bón vô cơ, thuốc BVTV hóa học trong thời gian dài vừa qua đã khiến đất ngày càng chai cứng, nghèo hữu cơ và mất dần sức sống. Một phần nguyên nhân theo bà Hương là cách truyền đạt, tuyên truyền còn nặng về lý thuyết khoa học, thiếu sự gần gũi, dễ hiểu với nông dân.
Theo đó, thời gian tới, Cục Trồng trọt và Bảo vệ thực vật sẽ xây dựng bộ tài liệu truyền thông chuyên biệt cho từng nhóm đối tượng từ nông dân, doanh nghiệp đến nhà quản lý để giúp họ hiểu, quan sát và chăm sóc sức khỏe đất đúng cách.
“Chỉ khi có được bức tranh toàn cảnh và rõ nét hơn về hiện trạng đất, chúng ta mới có thể hành động hiệu quả để cải thiện và nâng cao sức khỏe đất”, bà Hương nhấn mạnh.
GS.TS Nguyễn Văn Bộ cho rằng, muốn có hạt gạo xanh, trước hết mọi đầu vào phải xanh, từ vật tư đến cách canh tác. Ảnh: Linh Linh.
GS.TS Nguyễn Văn Bộ, nguyên Giám đốc Viện Khoa học Nông nghiệp Việt Nam đại diện cho Hiệp hội Ngành hàng lúa gạo Việt Nam nhìn nhận mối quan hệ giữa đất, cây trồng và phân bón chỉ có thể bền vững khi được gắn kết bởi yếu tố hữu cơ.
“Muốn có hạt gạo xanh thì trước hết mọi đầu vào phải xanh, từ vật tư đến cách canh tác và cuối cùng phải có người tiêu dùng xanh - những người lựa chọn sản phẩm vì trách nhiệm với môi trường", ông Bộ nói.
Theo GS Bộ, để hiện thực hóa mục tiêu này, cần cụ thể hóa chính sách và chiến lược phát triển nông nghiệp xanh, đồng thời tiến hành “khám sức khỏe" định kỳ cho đất nhằm nắm bắt kịp thời các biến động và có biện pháp can thiệp phù hợp. Đó là nền tảng để hướng đến một nền kinh tế tuần hoàn trong nông nghiệp - nơi đất được tái tạo và nuôi dưỡng lâu dài.
Theo ông Lê Quốc Doanh, hai yếu tố quyết định sức khỏe đất là quản lý dinh dưỡng và quy trình canh tác gắn với quy hoạch, phát triển hệ thống thủy lợi. Ảnh: Linh Linh.
Ở góc nhìn tổng thể, ông Lê Quốc Doanh, nguyên Thứ trưởng Bộ NN-PTNT, Chủ tịch Hội Làm vườn Việt Nam cho rằng, kết quả thống kê từ các viện nghiên cứu là một tín hiệu đáng mừng khi sức khỏe đất trồng lúa của Việt Nam nhìn chung vẫn ở mức tốt. Điều này được thể hiện rõ qua việc ngành lúa gạo Việt Nam vẫn duy trì năng suất ổn định và giữ vững thương hiệu trên thị trường quốc tế suốt nhiều năm qua.
Tuy nhiên, ông Doanh cũng nhấn mạnh không vì thế mà được phép chủ quan khi sức khỏe đất là nền tảng của sức khỏe cây trồng, đặc biệt là lúa - cây trồng chủ lực vô cùng quan trọng của Việt Nam.
“Hai yếu tố quyết định sức khỏe đất chính là quản lý dinh dưỡng và quy trình canh tác gắn với quy hoạch, phát triển hệ thống thủy lợi. Với cây lúa, Việt Nam đã có nhiều chương trình và đề án nghiên cứu nhằm nâng cao tính bền vững, từng bước hình thành các quy trình chuẩn để cải thiện sức khỏe đất, góp phần bảo đảm cho hạt gạo Việt không chỉ ngon mà còn xanh”, ông Doanh chia sẻ.
Theo ông Phan Văn Tâm, Phó Tổng Giám đốc Công ty cổ phần Phân bón Bình Điền, doanh nghiệp luôn tâm niệm nguyên tắc làm được bao nhiêu phải cùng bà con trả lại cho đất bấy nhiêu.
Trong bối cảnh nông nghiệp đang chuyển mình theo hướng xanh và bền vững, ông Tâm cho rằng việc nâng cao hàm lượng chất hữu cơ trong đất phải được đặt ở vị trí trung tâm. Với sự hỗ trợ của công nghệ hiện đại, Bình Điền đang nghiên cứu và triển khai các giải pháp giúp xử lý triệt để rơm rạ ngay tại đồng ruộng, biến phế phụ phẩm sau thu hoạch thành nguồn phân bón hữu cơ chất lượng cao. Cách làm này không chỉ giảm ô nhiễm môi trường do đốt rơm rạ mà còn góp phần trả lại sức khỏe cho đất để mỗi vụ mùa sau cây trồng được nuôi dưỡng trên nền đất tơi xốp, giàu sinh khí hơn.




























