Hiệu quả kép từ trồng cà phê dưới tán rừng
Những ngày giữa tháng 11, vườn cà phê dưới rừng gáo vàng của bà Trần Mai Hương tại thôn Cợp, xã Hướng Phùng, tỉnh Quảng Trị đang vào độ chín. Năm nay, cà phê được mùa, được giá, những người trồng cà phê như bà Hương hết sức phấn khởi.
Cà phê dưới tán rừng tạo ra sản phẩm chất lượng và đứng trước cơ hội tham gia thị trường tín chỉ các bon. Ảnh: Võ Dũng.
Điều bà Hương không ngờ tới là năng suất, chất lượng hạt cà phê dưới vườn gáo vàng tăng theo năm tháng. Tán cây che bóng mát đã làm chậm quá trình phát triển giúp quả cà phê tích tụ được nhiều chất béo và các hợp chất, chín đều, không bị cháy nám, nhân to hơn bình thường và vị đường cao hơn. Hạt cà phê thu hoạch có hương vị đặc trưng, phù hợp với sản xuất cà phê đặc sản, được ưa chuộng và có giá bán cao hơn so với trồng độc canh. Cùng với giá cà phê ấm dần, thương hiệu Madam Hương Coffee cũng dần được định vị trong lòng người tiêu dùng.
“Qua các cuộc tập huấn gần đây, chúng tôi được hướng dẫn trồng cây che bóng với mật độ 60-120 cây/ha. Với mật độ này, vừa đảm bảo chất lượng cây vừa phù hợp với tiêu chí giảm phát thải", bà Hương chia sẻ.
Bà Hương là hộ trồng, chế biến để cho ra sản phẩm hạt cà phê, cà phê rang xay cung cấp cho thị trường. Nhưng đa phần người dân tại các xã phía Tây Nam tỉnh Quảng Trị trồng cà phê để bán cho thương lái, các đại lý, các đơn vị chế biến cà phê trên địa bàn. Thông tin được tham gia thị trường tín chỉ các-bon từ trồng cà phê không gây mất rừng đã có tác động tích cực đến tâm lý người trồng cà phê tại đây.
Sản phẩm cà phê nông lâm kết hợp từng bước đáp ứng các quy định của EU. Ảnh: Võ Dũng.
Bà Nguyễn Thị Hằng, Giám đốc HTX Nông sản Khe Sanh cho biết, đơn vị hiện đang liên kết với 115 hộ dân trồng cà phê không gây mất rừng, theo hướng hữu cơ với tổng diện tích gần 200 ha. Mỗi năm, HTX thu mua 700-1.000 tấn cà phê chất lượng cao. Năm 2025, sản phẩm Khe Sanh Coffee chế biến từ những hạt cà phê chất lượng cao, trồng theo hướng hữu cơ, không gây mất rừng của HTX Nông sản Khe Sanh đã được công nhận là sản phẩm OCOP 5 sao.
Theo bà Hằng, trồng cà phê giảm phát thải không gây mất rừng như hiện nay đang giúp nông dân đứng trước nhiều cơ hội: Tăng năng suất, tăng giá trị và tạo ra những giá trị vô hình đối với môi trường. Đó là chỉ dấu của một nền nông nghiệp bền vững, thân thiện với môi trường.
“Trồng cà phê giảm phát thải ở đây hiện đang được thực hiện với kỹ thuật trồng cây che bóng bằng cây bản địa như gáo, mít, cà phê mít... tạo ra những vườn cà phê đa tầng tán. Trồng cà không gây mất rừng tạo ra giá trị thiết thực. Nếu được chi trả thêm giá trị từ bán tín chỉ các-bon thì người trồng cà phê nói riêng và sản xuất nông nghiệp nói chung sẽ được tiếp thêm động lực”, bà Hằng cho hay.
Trồng cà phê nông lâm kết hợp đang là xu thế tại các xã phía Tây Nam tỉnh Quảng Trị. Ảnh: Võ Dũng.
Mở cơ hội với thị trường các-bon
Năm 2023, với sự hỗ trợ của Tổ chức quốc tế về bảo tồn thiên nhiên tại Việt Nam (WWF-Việt Nam), tỉnh Quảng Trị đã thực hiện dự án cà phê nông lâm kết hợp, với mục tiêu đến năm 2027 sẽ chuyển đổi 2.500 ha cà phê độc canh sang mô hình nông lâm kết hợp và tăng thu nhập 40% cho 2.000 hộ tham gia... Sau 2 năm thực hiện, Công ty Slow Forest Coffee đã liên kết với các hộ dân, HTX, tổ hợp tác, doanh nghiệp thực hiện chuỗi liên kết cà phê chất lượng cao nông lâm kết hợp thông qua việc xây dựng vùng nguyên liệu với diện tích 1.000ha, chủ yếu tập trung tại xã Hướng Phùng. Hiện tại, nhiều diện tích cà phê đang phát triển tốt dưới tán cây ăn quả, cây bản địa, góp phần tăng thu nhập cho người dân.
Đại diện Sở Nông nghiệp và Môi trường tỉnh Quảng Trị cho hay, dự án cà phê nông lâm kết hợp do WWF-Việt Nam hỗ trợ thực hiện hướng tới việc chuyển đổi mô hình canh tác cà phê từ đơn canh sang cà phê nông-lâm kết hợp để tăng năng suất, chất lượng, thích ứng khí hậu và giảm phá rừng, cải thiện và bảo vệ rừng tự nhiên.
Các vườn cà phê sẽ được trồng xen cây che bóng (cây gỗ bản địa/che bóng), quản lý phân bón, nước, kỹ thuật bón phân hữu cơ, phòng trừ dịch hại sinh học, kỹ thuật tái canh. Nông dân tham gia dự án sẽ được tập huấn kỹ thuật canh tác nông-lâm kết hợp, quản lý rừng nhỏ mảnh, thực hành hữu cơ. Các biện pháp canh tác sẽ được kết hợp với hành động bảo tồn rừng tự nhiên, tạo hành lang sinh thái/điểm nối giữa vùng rừng, giảm nguy cơ phá rừng vì mở rộng diện tích trồng cà phê kém bền vững.
Bà Nguyễn Hồng Phương, Phó Giám đốc Sở Nông nghiệp và Môi trường tỉnh Quảng Trị cho biết, trong bối cảnh thị trường trong nước và quốc tế đang siết chặt các quy định về nguồn gốc sản phẩm, việc tỉnh Quảng Trị triển khai đề án tái canh và phát triển cây cà phê theo hướng sinh thái, hữu cơ và nông lâm kết hợp là hết sức cần thiết. Cách làm này đang từng bước đáp ứng các quy định của EU về chống phá rừng và lộ trình cam kết giảm phát thải khí nhà kính. Đây cũng là mục tiêu hướng tới một hệ sinh thái cà phê Quảng Trị bền vững, gắn với tín chỉ các- bon trong tương lai.
Việc trồng cà-phê xen cây bản địa theo mô hình nông lâm kết hợp không chỉ cải thiện năng suất và chất lượng, quan trọng hơn là phù hợp các quy định chống phá rừng của thị trường quốc tế. Tuy nhiên, để duy trì và nhân rộng mô hình này, người trồng còn phải vượt qua nhiều khó khăn về kỹ thuật, năng lực sản xuất cũng như yêu cầu rất cao từ các tổ chức quốc tế.
Bước đầu, trồng cà phê dưới tán rừng đã mang lại hiệu quả kép, cả kinh tế và môi trường. Để tiến xa hơn là xây dựng tín chỉ các-bon, quy trình cần được chuẩn hóa.
Bà Lương Thị Ngọc Trâm là Giám đốc Công ty TNHH Pun Coffee (Quảng Trị) cho rằng, khó khăn lớn nhất nằm ở quy trình khắt khe để được công nhận tín chỉ các-bon. Vùng nguyên liệu phải được đo lường lại hiện trạng, có hồ sơ hình ảnh, số liệu cập nhật liên tục; đồng thời, phải theo dõi quá trình cải tạo đất, đa dạng sinh học, phương thức canh tác từ 1 đến 3 năm trước khi các tổ chức quốc tế đánh giá và tính toán giá trị tín chỉ các-bon.
Hiện nay, đa phần nông hộ thiếu kinh nghiệm ghi chép, theo dõi, thiếu kiến thức về canh tác hữu cơ hoặc lo ngại rủi ro khi giảm sử dụng hóa chất. Nhận diện những khó khăn trên, Quảng Trị đã triển khai nhiều giải pháp hỗ trợ, chuyển giao quy trình sản xuất cà-phê nông lâm kết hợp cho các nhóm nông dân chủ chốt để lan tỏa ra toàn vùng cà-phê.































