Nguồn thu từ tín chỉ các-bon rừng có thể tới 10 triệu USD
Tỉnh Quảng Ngãi đang đứng trước cơ hội lớn khi sở hữu diện tích rừng rộng và trữ lượng hấp thụ các-bon dồi dào. Việc tham gia thị trường tín chỉ các-bon rừng không chỉ mở ra nguồn thu mới cho công tác bảo vệ rừng mà còn góp phần hiện thực hóa mục tiêu phát triển lâm nghiệp bền vững, thích ứng với biến đổi khí hậu.
Tỉnh Quảng Ngãi hiện có hơn 881.600ha rừng trong đó diện tích rừng tự nhiên khoảng 659.000ha. Ảnh: L.K.
Theo Chi cục Kiểm lâm tỉnh Quảng Ngãi, thị trường các-bon hình thành từ Nghị định thư Kyoto của Liên hợp quốc về biến đổi khí hậu, thông qua năm 1997. Từ đó, các-bon dần trở thành một loại hàng hóa đặc biệt, được mua bán, trao đổi dưới dạng các chứng chỉ giảm hoặc hấp thụ phát thải khí nhà kính. Trong đó, tín chỉ các-bon rừng được tạo ra từ các hoạt động như giảm mất rừng, suy thoái rừng; trồng rừng, tái trồng rừng, tái tạo thảm thực vật cũng như tăng cường quản lý rừng bền vững.
Với lợi thế tự nhiên sẵn có, Quảng Ngãi được đánh giá là địa phương có tiềm năng lớn để tham gia thị trường này. Toàn tỉnh hiện có hơn 881.600ha rừng, trong đó rừng tự nhiên chiếm khoảng 659.000ha, rừng trồng hơn 222.600ha. Nếu tính toán đầy đủ theo phương pháp của Cục Lâm nghiệp, mỗi năm rừng Quảng Ngãi có thể tạo ra khoảng 2 triệu tấn các-bon, tương đương giá trị hơn 10 triệu USD khi đưa ra thị trường.
Ông Nguyễn Văn Nam, Chi cục trưởng Chi cục Kiểm lâm tỉnh Quảng Ngãi cho biết, đây là nguồn lực rất đáng kể nếu được khai thác đúng hướng. “Nguồn thu từ tín chỉ các-bon rừng sẽ góp phần quan trọng cho công tác bảo vệ và phát triển rừng, đồng thời tạo thêm sinh kế cho cộng đồng nhận khoán bảo vệ rừng”, ông Nam nói.
Nếu tính toán đầy đủ theo phương pháp của Cục lâm nghiệp, mỗi năm Quảng Ngãi có khoảng 2 triệu tấn carbon. Ảnh: L.K.
Để tiến tới tham gia thị trường các-bon, công tác kiểm kê, đo đạc và theo dõi trữ lượng các-bon rừng được xem là nền tảng quan trọng. Hiện nay, tỉnh đang triển khai điều tra sinh khối và trữ lượng các-bon rừng theo các quy định chuyên ngành của Bộ Nông nghiệp và Môi trường. Việc tính toán trữ lượng các-bon được thực hiện thông qua phương pháp đo đạc trực tiếp từ các ô mẫu điều tra hoặc quy đổi gián tiếp từ sinh khối rừng, bảo đảm phản ánh sát thực tế hiện trạng rừng.
Cần có hướng dẫn, quy định cụ thể
Tuy nhiên, theo ngành kiểm lâm tỉnh Quảng Ngãi, việc kinh doanh tín chỉ các-bon rừng vẫn đối mặt với nhiều khó khăn. Trước hết là yêu cầu khắt khe về phương pháp luận và tính hợp lệ của dự án. Để được công nhận, khu vực thực hiện dự án phải đáp ứng nhiều tiêu chí nghiêm ngặt, trong đó có việc chứng minh lịch sử sử dụng đất trong nhiều năm trước đó. Điều này gây không ít trở ngại cho công tác thu thập dữ liệu, nhất là ở những vùng rừng xa xôi, hồ sơ lưu trữ còn hạn chế.
Bên cạnh đó, công tác đo đạc, giám sát trữ lượng các-bon rừng đòi hỏi nguồn nhân lực và kinh phí lớn. Đặc thù rừng nhiệt đới với sự đa dạng về loài cây, điều kiện địa hình và môi trường khiến việc ước tính lượng carbon hấp thụ trở nên phức tạp. Nhiều khu vực buộc phải tổ chức đo đạc thực địa để hiệu chỉnh số liệu, làm gia tăng chi phí và thời gian thực hiện.
Theo Chi cục Kiểm lâm tỉnh Quảng Ngãi, công tác đo đạc, giám sát trữ lượng carbon rừng hiện nay đòi hỏi nguồn nhân lực và kinh phí lớn. Ảnh: L.K.
Một thách thức khác là rủi ro trong quá trình triển khai dự án. Các yếu tố như sâu bệnh, cháy rừng, thiên tai có thể làm suy giảm trữ lượng các-bon, khiến dự án không đạt được lượng tín chỉ như dự kiến. Trong khi đó, thời gian thực hiện các dự án các-bon rừng thường kéo dài từ 20 đến 100 năm, đòi hỏi sự cam kết lâu dài và nỗ lực bền bỉ của các bên tham gia.
Liên quan đến cơ chế phân chia lợi ích từ tín chỉ các-bon, hiện nay Chính phủ chưa ban hành quy định cụ thể. Tuy vậy, theo định hướng đang được thảo luận, việc chia sẻ lợi ích từ carbon rừng có thể được xây dựng tương tự cơ chế chi trả dịch vụ môi trường rừng. Điều này nhằm bảo đảm hài hòa lợi ích giữa nhà nước, các chủ rừng và cộng đồng dân cư nhận khoán bảo vệ rừng.
Ông Nguyễn Văn Nam, Chi cục trưởng Chi cục Kiểm lâm tỉnh Quảng Ngãi cho rằng, để thị trường tín chỉ các-bon rừng thực sự đi vào thực tế, cần sớm hoàn thiện hành lang pháp lý. “Ngành lâm nghiệp rất kỳ vọng Chính phủ sớm ban hành nghị định quy định về dịch vụ hấp thụ và lưu giữ các-bon của rừng. Khi có cơ sở pháp lý rõ ràng, các địa phương sẽ thuận lợi hơn trong việc xây dựng và triển khai dự án, tiến tới bán tín chỉ các-bon, tạo nguồn thu ổn định cho bảo vệ rừng”, ông Nam nhấn mạnh.
Trong bối cảnh biến đổi khí hậu ngày càng diễn biến phức tạp, việc tham gia thị trường tín chỉ các-bonkhông chỉ mang ý nghĩa kinh tế mà còn khẳng định vai trò của rừng trong giảm phát thải khí nhà kính, bảo vệ môi trường sinh thái. Với tiềm năng lớn và định hướng rõ ràng, Quảng Ngãi được kỳ vọng sẽ từng bước khai thác hiệu quả “giá trị xanh” từ rừng, góp phần thúc đẩy phát triển lâm nghiệp theo hướng bền vững và lâu dài.






























