Khôi phục môi trường ruộng tôm - lúa
An Giang là tỉnh có tiềm năng, lợi thế lớn về sản xuất tôm – lúa với diện tích khoảng 100 ngàn ha. Tuy nhiên, sản xuất tôm - lúa vẫn còn nhiều hạn chế về áp dụng khoa học kỹ thuật vào sản xuất nên hiệu quả kinh tế chưa cao. Đặc biệt là tình trạng kéo dài thời gian giữ nước lợ để nuôi tôm dẫn đến mặn xâm nhập và thấm sâu vào đất, ảnh hưởng càng nghiêm trọng đến sản xuất, nhất là vụ lúa.
Dự án “Xây dựng mô hình cải thiện đất nhiễm mặn trong mô hình canh tác tôm - lúa” do Trung tâm Khuyến nông An Giang triển khai đã giúp nông dân cải tạo tốt môi trường, sản xuất thắng lợi cả vụ tôm và vụ lúa. Ảnh: Trung Chánh.
Từ những thực tế trên, năm 2025, Trung tâm Khuyến nông An Giang đã triển khai Dự án “Xây dựng mô hình cải thiện đất nhiễm mặn trong mô hình canh tác tôm - lúa” tại các xã ven biển như Tây Yên, An Biên, An Minh… Sau quá trình thực hiện, đơn vị đã tổ chức hội thảo đánh giá những kết quả kỹ thuật, hiệu quả cải thiện đất, khả năng thích ứng trong điều kiện nhiễm mặn giúp nâng cao hiệu quả sản xuất. Đồng thời, định hướng nhân rộng mô hình tại các vùng sản xuất tôm - lúa đang chịu tác động bởi xâm nhập mặn trên địa bàn tỉnh, nhất là khu vực ven biển.
Tây Yên là xã ven biển có trên 9.650ha sản xuất theo mô hình tôm - lúa. Việc thiếu áp dụng khoa học kỹ thuật kết hợp tâm lý canh tác theo tập quán cũ khiến hiệu quả kinh tế bấp bênh, thu nhập người dân thiếu ổn định. Nhiều hộ bỏ vụ lúa, chỉ nuôi tôm theo hướng quảng canh truyền thống, dễ chịu rủi ro về môi trường và dịch bệnh. Việc chạy theo con tôm khiến độ mặn tích tụ trong đất và tăng dần qua từng năm khiến chân ruộng ngày càng suy kiệt, khó phục hồi.
Dự án “Xây dựng mô hình cải thiện đất nhiễm mặn trong mô hình canh tác tôm - lúa”, không chỉ giúp tăng hiệu quả kinh tế mà còn góp phần bảo vệ môi trường đất, nước, nâng cao tính bền vững của hệ thống sản xuất. Ảnh: Trung Chánh.
Dự án “Xây dựng mô hình cải thiện đất nhiễm mặn trong canh tác tôm - lúa” được triển khai trên địa bàn xã với quy mô 70ha, mục tiêu nhằm khôi phục đất bị nhiễm mặn bằng quy trình cải tạo, luân canh nuôi tôm với trồng lúa, kiểm soát môi trường, điều chỉnh dinh dưỡng hợp lý, hướng đến sản xuất bền vững. Trung tâm Khuyến nông An Giang đã phối hợp với Trạm Kỹ thuật nông nghiệp khu vực An Biên tổ chức 9 lớp tập huấn với 270 lượt người tham dự.
Năng suất cả tôm và lúa đều tăng
Sau một năm triển khai, dự án đã mang lại hiệu quả rõ rệt khi môi trường được cải thiện, năng suất tôm nuôi và lúa đều tăng. Nhìn những chiếc máy gặt đật liên hợp lia hàm cắt trên ruộng lúa vàng óng, nhả ra những bao lúa trắng xóa nằm ngổn ngang, các hộ nông dân tham gia dự án đều cười mãn nguyện.
Thông qua việc áp dụng quy trình xử lý đất, bón phân hữu cơ, men vi sinh và rửa mặn hợp lý, độ mặn và pH trong đất giảm rõ rệt, cấu trúc đất được cải thiện, hạn chế tình trạng chai cứng và ngộ độc hữu cơ vốn phổ biến trên các ruộng bị bỏ hoang nhiều năm. Đây là nền tảng quan trọng giúp cây lúa sinh trưởng ổn định, bộ rễ phát triển khỏe và tăng khả năng chống chịu trước điều kiện thời tiết bất lợi.
Nhờ môi trường đất được cải thiện, nông dân tham gia dự án đang thu hoạch lúa với niềm vui trúng mùa, bán được giá cao, lợi nhuận tăng. Ảnh: Trung Chánh.
Dự án triển khai trên diện tích 70ha tại xã Tây Yên, toàn bộ diện tích sử dụng giống lúa ST25 cấp xác nhận, gieo sạ với mật độ chỉ 80kg/ha, thấp hơn nhiều so với tập quán cũ. Kết quả cho thấy lúa sinh trưởng đồng đều, nở bụi sớm, ít sâu bệnh nhờ quản lý dinh dưỡng hợp lý và giảm phụ thuộc vào phân hóa học, thuốc bảo vệ thực vật.
Có gần 1,5ha đất canh tác tham gia dự án, anh Đoàn Thanh Liêm ở ấp Mương Chùa, xã Tây Yên phấn khởi cho biết: “Vụ lúa năm nay năng suất đạt hơn 800kg/công, cao hơn ngoài mô hình gần 200kg. Quy trình sản xuất giảm 15 - 20% lượng phân hóa học và sử dụng 100% thuốc BVTV sinh học, lúa làm ra đạt chất lượng, giá doanh nghiệp thu mua 9.700 đồng/kg, cao hơn giá thị trường 200 đồng/kg. Chi phí sản xuất giảm 1,7 triệu đồng, lợi nhuận tăng thêm khoảng 11,6 triệu đồng/ha. Mô hình không chỉ giúp tăng hiệu quả kinh tế mà còn góp phần bảo vệ môi trường đất, nước, nâng cao tính bền vững của hệ thống sản xuất”.
Đặc biệt, dự án đã liên kết tiêu thụ được 50/70ha theo hợp đồng, tạo tiền đề hình thành vùng sản xuất tập trung, hướng hữu cơ và tham gia chuỗi giá trị lúa - tôm chất lượng cao của An Giang trong giai đoạn mới.
Trước đó, nông dân trong vùng dự án đã có vụ nuôi tôm thắng lợi. Các hộ dân tham gia được chuyển giao kỹ thuật xử lý đáy ruộng, gây màu nước, sử dụng chế phẩm vi sinh, khoáng chất, đặc biệt là quy trình ương, nuôi tôm sú hai giai đoạn. Nhờ đó, mật độ thả nuôi được nâng lên, giúp tăng năng suất.
Kết quả theo dõi cho thấy độ mặn trong giai đoạn nuôi ổn định từ 10 - 30‰, pH duy trì 7,5 - 9, độ kiềm 125 - 160mg/l, đây là mức lý tưởng cho sinh trưởng của tôm sú. Những chỉ tiêu này cho thấy môi trường khu vực canh tác đã cải thiện đáng kể so với trước. Việc hình thành thói quen ghi chép nhật ký sản xuất cho 100% hộ tham gia là bước thay đổi quan trọng, tạo nền tảng để quản lý môi trường và đánh giá hiệu quả kỹ thuật.
Tỷ lệ sống của tôm được cải thiện đáng kể. Ở giai đoạn ương, tỷ lệ sống trung bình đạt trên 60%, cao hơn mục tiêu đề ra của mô hình và vượt nhóm canh tác ngoài mô hình (52%). Trong suốt giai đoạn nuôi thương phẩm, tỷ lệ sống đạt 51%, tiếp tục cao hơn mức trung bình của các hộ sản xuất truyền thống. Đây là chỉ báo quan trọng cho thấy môi trường đáy ao (mặt ruộng) và chất lượng nước đã được cải thiện rõ rệt nhờ xử lý đất, sử dụng phân hữu cơ và chế phẩm vi sinh.
Năng suất tôm thu hoạch bình quân đạt 410kg/ha, cao hơn khu vực ngoài mô hình khoảng 70kg. Với giá bán trung bình 170.000 đồng/kg, tổng thu đạt trên 61 triệu đồng, sau khi trừ chi phí, lợi nhuận đạt hơn 43 triệu đồng. Nhiều hộ còn gia tăng giá trị trên cùng diện tích thông qua thả xen cua với mật độ 1 - 2 con/m2, cho sản lượng 200 - 300kg/ha, vượt trội so với phương thức sản xuất truyền thống. Điều này khẳng định mô hình không chỉ nâng hiệu quả nuôi tôm mà còn mở ra hướng đa dạng sinh kế, tận dụng tốt hệ sinh thái ruộng tôm - lúa.
Ông Lê Văn Dũng, Phó Giám đốc Trung tâm Khuyến nông An Giang đánh giá, việc cải thiện đất nhiễm mặn không chỉ giúp nông dân khôi phục vụ lúa trên nền đất tôm mà còn đóng góp vào mục tiêu tái cơ cấu ngành nông nghiệp theo hướng nâng cao giá trị gia tăng, phát triển xanh và bền vững. Thành công của mô hình cho thấy tôm - lúa vẫn là hướng đi bền vững ở vùng chịu tác động mạnh của xâm nhập mặn nếu người dân được tiếp cận khoa học kỹ thuật, quy trình rõ ràng và có sự đồng hành từ ngành chuyên môn.
Mô hình cải thiện đất nhiễm mặn trong canh tác tôm - lúa tại An Giang giúp giảm mặn, phục hồi đất, nâng cao năng suất cả tôm và lúa, giảm chi phí, tăng lợi nhuận và mở ra hướng sản xuất bền vững vùng ven biển.





























