Sau sáp nhập, lĩnh vực chăn nuôi ven đô TP Hải Phòng đối mặt với yêu cầu cấp thiết về đổi mới khi các Trạm Thủy sản, Chăn nuôi và Thú y phải mở rộng địa bàn với vai trò, trách nhiệm lớn trong việc định hướng ngành phát triển theo hướng bền vững, hiệu quả.
Việc chăn nuôi ven đô thị thường ở quy mô nhỏ nhưng nằm rải rác các khu dân cư. Ảnh: Đinh Mười.
Đơn cử như tại Trạm Thủy sản, Chăn nuôi và Thú y Kiến Thụy, hiện tại, trạm đang quản lý cả địa bàn 3 quận, huyện cũ gồm: Kiến Thụy, Đồ Sơn và Dương Kinh cũ, trong đó có khu vực cấm và có khu vực không thuộc diện cấm hoàn toàn theo Nghị quyết 20 của thành phố Hải Phòng.
Để quản lý hiệu quả, trạm đang chuyển từ phương thức quản lý truyền thống sang định hướng chăn nuôi gắn với ứng dụng công nghệ cao, an toàn sinh học và có giá trị kinh tế gia tăng. Điển hình như phường Nam Đồ Sơn, là trọng tâm của định hướng xây dựng một nền chăn nuôi bền vững, hiện đại, có khả năng cạnh tranh cao, thân thiện với môi trường và phù hợp với quy hoạch đô thị mới của Hải Phòng.
Ông Trần Sinh Thanh – Trạm trưởng Trạm Thủy sản, Chăn nuôi và Thú y Kiến Thụy cho biết, cơ quan chuyên môn khuyến khích các hộ chăn nuôi quy mô nông hộ và trang trại nhỏ dần chuyển đổi sang các mô hình hiện đại hơn. Điều này bao gồm việc áp dụng nghiêm ngặt các tiêu chuẩn an toàn sinh học, xây dựng quy trình chăn nuôi khép kín, kiểm soát chặt chẽ đầu vào, đầu ra.
“Chúng tôi kiên trì tuyên truyền nguyên tắc "4 không": không giấu dịch, không bán chạy lợn bệnh, không vận chuyển, buôn bán lợn bệnh, không vứt xác lợn bừa bãi ra môi trường”, ông Thanh cho hay.
Về tiêm phòng, dữ liệu từ các địa phương cho thấy tỉ lệ tiêm vaccine dại chó/mèo đạt 59,5%, cúm gia cầm đạt 57,6%. Các loại vaccine bắt buộc khác như: Lở mồm long móng lợn đạt 30,7%, dịch tả lợn đạt 72,3%. Đây là những con số cần tiếp tục cải thiện, đặc biệt là với các bệnh truyền nhiễm nguy hiểm. Trạm đã và đang tăng cường các đợt tiêm phòng định kỳ, nâng cao tỉ lệ bao phủ vaccine cho đàn vật nuôi trên toàn địa bàn phụ trách.
Bên cạnh đó, Trạm khuyến khích ứng dụng công nghệ xử lý chất thải như hầm biogas, chế phẩm sinh học để giảm thiểu mùi hôi và ô nhiễm. Những nỗ lực này đã mang lại những dấu hiệu tích cực ban đầu, ví dụ điển hình là việc kiểm soát nhanh chóng ổ dịch Dịch tả lợn Châu Phi tại một hộ dân ở phường Nam Đồ Sơn vào tháng 11 vừa qua.
Nhờ sự phối hợp kịp thời giữa Trạm, chính quyền địa phương và ý thức của người dân, ổ dịch đã được khống chế hiệu quả, không để lây lan, tránh được thiệt hại lớn hơn cho cộng đồng.
Ông Trần Sinh Thanh trong buổi tọa đàm liên quan đến chăn nuôi vùng ven đô do Báo Nông nghiệp và Môi trường thực hiện. Ảnh: Đinh Mười.
Theo ông Trần Sinh Thanh, để đạt được tầm nhìn này, chúng tôi nhận thức rõ những thách thức. Vấn đề lớn nhất vẫn là ở nông hộ nhỏ lẻ và ý thức đầu tư ban đầu. Việc chuyển đổi từ chăn nuôi truyền thống sang an toàn sinh học, xử lý chất thải đòi hỏi chi phí lớn, không phải hộ nào cũng đủ khả năng. Nhiều hộ còn thiếu thông tin về kỹ thuật, nguồn vốn hỗ trợ, hoặc các mô hình kinh doanh mới. Tỉ lệ tiêm vaccine cho một số loại vật nuôi còn thấp, cho thấy ý thức phòng bệnh chủ động cần được nâng cao hơn nữa.
Nguồn lực cho công tác phòng, chống dịch bệnh vẫn là một bài toán khó, việc chưa bố trí được kinh phí mua hóa chất, công phun, nhiên liệu cho công tác vệ sinh, tiêu độc, khử trùng. Điều này ảnh hưởng trực tiếp đến khả năng chủ động phòng ngừa dịch bệnh trên diện rộng.
Bên cạnh đó, công tác kiểm soát giết mổ nhỏ lẻ, tự phát trong khu dân cư vẫn còn tồn tại. Ví dụ, tại khu vực phường Hợp Đức cũ trước đây, lực lượng chức năng đã phát hiện trường hợp kinh doanh thịt lợn không có dấu kiểm soát giết mổ. Những điểm giết mổ không phép trong khu dân cư tiềm ẩn nguy cơ rất lớn về dịch bệnh và an toàn thực phẩm, do đó cần quan tâm bố trí lực lượng hỗ trợ kiểm tra, kiểm soát giết mổ.
Đặc biệt, do địa bàn quản lý rộng lớn, với các phong tục tập quán chăn nuôi và mức độ phát triển kinh tế khác nhau giữa phía Đông (Hải Phòng cũ) và phía Tây (Hải Dương cũ). Điều này đòi hỏi một khung pháp lý và chính sách thống nhất nhưng đủ linh hoạt để áp dụng phù hợp với từng vùng. Công tác thống kê dữ liệu chính xác trên toàn thành phố mới cũng là một trở ngại lớn trong việc xây dựng chính sách hỗ trợ và triển khai kế hoạch hiệu quả.
Để tháo gỡ những nút thắt này, theo ông Trần Sinh Thanh, cần tập trung vào ba nhóm giải pháp chính. Thứ nhất là kiện toàn thể chế và nguồn lực, thứ hai là tăng cường ứng dụng khoa học công nghệ và đào tạo và thứ ba là nâng cao hiệu quả phối hợp liên ngành và kiểm soát chặt chẽ.
“Với không gian phát triển mới và quyết tâm chính trị mới, tôi kỳ vọng ngành chăn nuôi của TP Hải Phòng mới sẽ thực sự chuyển mình. Chúng ta sẽ không chỉ đảm bảo an ninh lương thực, thực phẩm cho một siêu đô thị mà còn khẳng định vị thế là một trung tâm chăn nuôi an toàn, hiện đại, có thể là tốp đầu của cả nước trong tương lai. Đây là cơ hội vàng để kiện toàn hệ thống thú y và chuỗi giá trị chăn nuôi an toàn, bền vững”, ông Trần Sinh Thanh khẳng định.






























