Liên kết nông dân là nền tảng để chuyển giao công nghệ
Trung tâm Khuyến nông An Giang vừa tổ chức hội thảo tổng kết Dự án “Cánh đồng lớn đáp ứng vùng nguyên liệu và ứng phó biến đổi khí hậu” giai đoạn 2022 - 2025. Hội thảo là dịp nhìn lại chặng đường gần 4 năm triển khai mô hình, đánh giá những kết quả đạt được, những khó khăn, hạn chế, đồng thời rút ra bài học kinh nghiệm để làm cơ sở đề xuất, triển khai các hoạt động trong giai đoạn tiếp theo.
Lãnh đạo Trung tâm Khuyến nông An Giang cùng nông dân và HTX cùng thăm đồng, đánh giá sinh trưởng lúa trong vùng sản xuất lúa chất lượng cao, giảm phát thải tại An Giang. Ảnh: Lê Hoàng Vũ.
ĐBSCL là vùng sản xuất lúa trọng điểm của cả nước, hằng năm đóng góp trên 50% sản lượng lúa quốc gia và trên 95% lượng gạo xuất khẩu của Việt Nam. Riêng tỉnh An Giang có diện tích đất trồng lúa trên 624.000ha, diện tích gieo trồng năm 2024 đạt 1,344 triệu ha, sản lượng khoảng 8,78 triệu tấn.
Tuy nhiên, sản xuất lúa hiện nay vẫn đối mặt nhiều thách thức như manh mún, chi phí đầu vào cao, lạm dụng phân bón hóa học và thuốc bảo vệ thực vật, phát thải khí nhà kính lớn, đầu ra chưa ổn định. Ước tính trung bình sản xuất 1,5 tấn lúa phát thải khoảng 1 tấn CO₂e. Điều này đặt ra yêu cầu cấp thiết về chuyển đổi phương thức sản xuất theo hướng bền vững, phát thải thấp và thích ứng với biến đổi khí hậu.
Bà Huỳnh Đào Nguyên, Giám đốc Trung tâm Khuyến nông An Giang cho biết, vai trò then chốt của liên kết trong triển khai Dự án là giúp nông dân áp dụng được các tiến bộ kỹ thuật, đặc biệt là công nghệ phục vụ sản xuất lúa. Để làm được điều này, trước hết phải liên kết nông dân lại với nhau. Đây là cơ sở để triển khai đồng bộ các giải pháp kỹ thuật, từ đó mang lại hiệu quả thực chất.
Ngay từ khi triển khai dự án năm 2022, mục tiêu Dự án đã được xác định rõ giúp giảm chi phí sản xuất từ 20 - 30% và tăng hiệu quả kinh tế từ 30 - 50% cho người trồng lúa. Cùng với đó là liên kết doanh nghiệp tiêu thụ, chuyển giao các tiến bộ kỹ thuật, công nghệ đầu vào cho HTX và nông dân.
Nông dân An Giang phấn khởi bên ruộng lúa trĩu bông, minh chứng hiệu quả của quy trình canh tác lúa chất lượng cao gắn với giảm chi phí, tăng lợi nhuận. Ảnh: Lê Hoàng Vũ.
Ứng dụng kỹ thuật đồng bộ, giảm chi phí rõ rệt
Dự án được triển khai trên tổng diện tích trên 5.582ha với 73 cánh đồng lớn, thu hút 2.027 hộ nông dân tham gia. Diện tích và số cánh đồng tăng dần qua các năm, phản ánh sự tin tưởng của nông dân và năng lực tổ chức sản xuất ngày càng được nâng cao của các HTX.
Việc hình thành các cánh đồng quy mô từ 50ha trở lên đã giúp khắc phục tình trạng sản xuất manh mún, tạo điều kiện áp dụng đồng bộ quy trình kỹ thuật, cơ giới hóa và chuyển đổi số trong sản xuất lúa. Dự án cũng linh hoạt điều chỉnh quy mô qua từng năm, tập trung nâng cao chất lượng, hiệu quả thay vì chạy theo số lượng.
Một trong những điểm nổi bật của dự án là việc áp dụng đồng bộ các tiến bộ kỹ thuật trong sản xuất lúa. 100% diện tích sử dụng giống lúa xác nhận cấp 1 như Đài thơm 8, OM18, ST25… đáp ứng yêu cầu thị trường và doanh nghiệp tiêu thụ.
Mật độ gieo sạ được giảm dần theo lộ trình, từ dưới 100kg/ha giai đoạn 2022 - 2024 xuống còn khoảng 70kg/ha năm 2025. Nhiều HTX đã áp dụng gieo sạ bằng máy, sạ hàng, sạ bằng drone giúp tiết kiệm giống, giảm công lao động và tăng độ đồng đều trên ruộng.
Nhờ áp dụng quy trình “1 phải 5 giảm”, lượng phân bón hóa học giảm 15 - 20%, số lần phun thuốc bảo vệ thực vật giảm trung bình 2 lần/vụ nhưng năng suất lúa vẫn ổn định, thậm chí tăng nhẹ. Đây là minh chứng rõ nét cho hiệu quả kinh tế và môi trường mà mô hình mang lại.
Thu hoạch lúa bằng cơ giới bảo đảm chất lượng hạt lúa, giảm thất thoát sau thu hoạch trong mô hình liên kết sản xuất và tiêu thụ. Ảnh: Lê Hoàng Vũ.
Dự án cũng mạnh dạn đưa công nghệ cao vào sản xuất. Các trạm giám sát sâu rầy thông minh giúp theo dõi dịch hại tự động, cảnh báo sớm, hỗ trợ nông dân phòng trừ đúng thời điểm. Năm 2025, cảm biến ngập – khô xen kẽ (AWD) được đưa vào quản lý nước, góp phần tiết kiệm nước tưới, giảm phát thải khí metan.
Tại các vùng chủ động nước như Tây sông Hậu và Tứ giác Long Xuyên, AWD phát huy hiệu quả rõ rệt. Dù còn khó khăn tại một số khu vực như U Minh Thượng, việc triển khai quản lý nước ngập - khô xen kẽ đã bước đầu hình thành nhận thức cho nông dân về quản lý nước tiết kiệm, làm tiền đề để mở rộng trong tương lai.
Liên kết tiêu thụ là nội dung xuyên suốt của Dự án. Giai đoạn 2022 - 2025, diện tích liên kết đạt 4.556ha, chiếm hơn 81% diện tích thực hiện. Nhiều doanh nghiệp lớn như Tập đoàn Tân Long, Trung An, Lộc Trời… tham gia thu mua, ký hợp đồng với HTX, giúp nông dân yên tâm sản xuất.
Ông Nguyễn Văn Hòa, Giám đốc HTX nông nghiệp Tân Thạnh (tổ 2, ấp Khánh Tân, xã Giang Thành, tỉnh An Giang) chia sẻ: Trước đây bà con sản xuất nhỏ lẻ, mạnh ai nấy làm, đầu ra rất bấp bênh. Tham gia cánh đồng lớn, HTX đứng ra tổ chức sản xuất, áp dụng kỹ thuật mới và ký hợp đồng với doanh nghiệp. Giá lúa ổn định hơn, chi phí giảm, lợi nhuận của xã viên tăng rõ rệt.
Máy gặt đập liên hợp hoạt động trên cánh đồng lúa chất lượng cao ở An Giang. Ảnh: Lê Hoàng Vũ.
Với những kết quả đã đạt được, Dự án “Cánh đồng lớn” tại An Giang được đánh giá là mô hình tổ chức sản xuất phù hợp trong bối cảnh hiện nay, góp phần giảm chi phí, tăng giá trị hạt lúa, giảm phát thải và thích ứng biến đổi khí hậu. Quan trọng hơn, Dự án đã tạo nền tảng vững chắc cho việc hình thành vùng nguyên liệu lớn, đáp ứng yêu cầu của thị trường trong nước và quốc tế, hướng tới phát triển bền vững ngành hàng lúa gạo của tỉnh An Giang và toàn vùng ĐBSCL.





























