| Hotline: 0983.970.780

Làng… C4

Thứ Năm 25/12/2025 , 08:31 (GMT+7)

Làng C4, nay là phố 7, nơi lớp công nhân Nông trường Điện Biên từng là Bộ đội Cụ Hồ ở lại gieo mầm nông nghiệp và giữ gìn ký ức hào hùng.

Làng C4, chứng nhân của thời kỳ khai hoang mở đất Điện Biên

Làng C4, xã Thanh Hưng (huyện Điện Biên cũ), sau khi sáp nhập chính quyền hai cấp, đổi tên là phố 7, phường Mường Thanh. Làng được thành lập từ năm 1958, sau ngày Giải phóng Điện Biên Phủ, khi Sư đoàn 316 hoàn thành nhiệm vụ chiến đấu, một bộ phận cán bộ, chiến sĩ ở lại xây dựng Nông trường Quốc doanh Điện Biên. Họ mang theo tinh thần “Bộ đội Cụ Hồ” bước vào một cuộc chiến mới; cuộc chiến với đói nghèo, với đất hoang, sỏi đá, để dựng nên những mùa vàng trên cánh đồng Mường Thanh hôm nay.

Làng trước đây còn được gọi là làng công nhân C4, sau Nông trường Quốc doanh Điện Biên giải thể, lớp công nhân nghỉ hưu thì lại đổi tên thành làng C4 hưu. Những thế hệ công nhân của nông trường cũ đã mất gần hết, làng còn nhõn 3 cụ tuổi gần 90. Cụ Thanh cuối làng, cụ Thuật giữa làng và cụ Kế đầu làng. Nghe đâu còn cụ nữa hơn trăm tuổi nằm liệt mấy năm nay, lúc nhớ lúc quên… giờ như ngọn đèn run rẩy trước gió.

Làng C4 (nay là phố 7) được thành lập năm 1958, nơi có gần 200 bộ đội của Sư đoàn 316, tình nguyện ở lại làm công nhân Nông trường Quốc doanh Điện Biên. Ảnh: Trần Hương. 

Làng C4 (nay là phố 7) được thành lập năm 1958, nơi có gần 200 bộ đội của Sư đoàn 316, tình nguyện ở lại làm công nhân Nông trường Quốc doanh Điện Biên. Ảnh: Trần Hương. 

Cụ bà Nguyễn Thị Thanh, năm nay đã 88 tuổi, vẫn nhớ như in ngày đầu đặt chân lên Điện Biên, năm 1958. Khi ấy, miền Tây Bắc còn nguyên sơ, rừng núi bạt ngàn, chỉ có vài con đường mòn dẫn vào thung lũng nhỏ. Thanh niên xung phong được tuyển về nông trường, còn những người như cụ thì đi theo chồng. “Lên Nông trường Quốc doanh Điện Biên dù tôi lúc ấy chỉ khoảng 40kg, nhưng những công việc đồng áng, cấy lúa, trồng ngô ở nhà làm quen rồi nên không có gì bỡ ngỡ…

"Tôi làm thạo việc, lên luống khoai thẳng đẹp và luôn làm nhiều hơn các bạn cùng đội. Các đội sản xuất thời đó tổ chức thi đua, đột kích, tôi thường dẫn đầu. Đi chặt mía, mỗi người chỉ làm 2 luống, tôi làm 4 luống vẫn xong trước. Ngày ấy khỏe thật, làm không biết mệt, vác 2 vác mía 80 ki - lô - gam phăm phăm từ giữa lô ra đầu bờ để cân như không…".

Rồi cụ kể tiếp: "Làng C4 khi ấy còn sơ sài, nhà cấp 4 lợp lá mía, vách đất, đông đúc hàng trăm hộ. Thanh niên thì ở tập thể, bốn người một gian, còn các gia đình chia gian ra ở. Các ông lên trước trồng cây. Chúng tôi lên sau, ở lại lập làng giữ đất xây dựng thành quê hương thứ hai. Cuộc sống trên nông trường, làm lúa, trồng ngô, khoai, mía, đi vệ sinh... cũng bấm giờ. Công việc được tổ chức như quân đội: điểm danh, bấm giờ, phân công cụ thể. Cuộc sống vất vả không chỉ nằm ở công việc mà còn ở việc chăm sóc con cái".

Cụ Nguyễn Thị Thanh, làng C4 (nay là phố 7) phường Mường Thanh, công nhân Nông trường Quốc doanh Điện Biên, năm 1958. Ảnh: Trần Hương. 

Cụ Nguyễn Thị Thanh, làng C4 (nay là phố 7) phường Mường Thanh, công nhân Nông trường Quốc doanh Điện Biên, năm 1958. Ảnh: Trần Hương. 

"Mình tôi nuôi 7 đứa lau nhau trứng gà trứng vịt: 4 đứa con đẻ và 3 đứa trẻ mồ côi. Chồng đi công tác quanh năm, nhà chỉ có một mình và mẹ già; 4 - 5 giờ sáng tôi đã phải mang con vào rừng gửi trẻ, đi bộ tới tận Hồng Lếch, Lích Cuông, Lích Cang… gửi con xong rồi mới tập trung đi làm". Qua nghe cụ kể, tất cả 7 người con của gia đình cụ đều có công ăn việc làm và trở thành những đảng viên ưu tú, là cán bộ cốt cán trong ngành công an, viện kiểm sát và giáo viên…

Cụ Nguyễn Thị Thuật kém cụ Thanh 1 tuổi, người Hải Dương, lên Điện Biên năm 1960 theo chồng - khi ấy chồng cụ là bộ đội thuộc Sư đoàn 316. Cụ Thuật mái tóc bạc phơ, trắng như cước. Nước da trắng hồng, phúc hậu. Cụ bảo: “Làng C4 ngày ấy toàn công nhân nông trường, nhà lợp bằng lá mía, nhà nọ cách nhà kia bằng hàng rào dâm bụt. Giờ đất đai lên giá, cuộc sống thay đổi, làng xóm cũng khác xưa… Thời tôi, mọi người xin nhau vài mét đất bình thường”.

Theo lời cụ kể thì cánh đồng Mường Thanh ngày ấy chỉ cấy một vụ, lúa cấy lúc bấy giờ chủ yếu là giống J2, “lúa hai linh ba” sau này thì có giống mới IR64. Còn ngô, khoai, sắn thì trồng vụ đông và vụ hè thu; mãi đến năm 1969 công trình Đại Thủy nông Nậm Rốm xây dựng xong, cấp nước tưới cho toàn bộ  cánh đồng Mường Thanh mới canh tác được lúa 2 vụ.

Cụ Nguyễn Thị Thuật, làng C4 (nay là phố 7) phường Mường Thanh, công nhân, kế toán Nông trường Quốc doanh Điện Biên năm 1960. Ảnh: Trần Hương. 

Cụ Nguyễn Thị Thuật, làng C4 (nay là phố 7) phường Mường Thanh, công nhân, kế toán Nông trường Quốc doanh Điện Biên năm 1960. Ảnh: Trần Hương. 

Nhắc về Nông trường Điện Biên, các cụ lại nhớ đến công trình Đại thủy nông Nậm Rốm; nơi in dấu bao lớp thanh niên xung phong cùng thời. Lớp TNXP ngày ấy và cả thế hệ công nhân Nông trường Quốc doanh Điện Biên giờ đây người còn, người mất... Có người vĩnh viễn ở lại tuổi hai mươi.. Những con người ấy đã viết lên bản trường ca bi tráng, hào hùng... cất lên từ đồng ruộng.

Khi ấy, để thực hiện mục tiêu tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc lên chủ nghĩa xã hội, Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ III, đề ra Kế hoạch 5 năm lần thứ nhất giai đoạn 1961 - 1965. Nhiệm vụ chủ yếu của Kế hoạch này là công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa, lấy phát triển công nghiệp nặng làm nền tảng, đồng thời ra sức phát triển công nghiệp nhẹ và nông nghiệp.

Chính vì vậy, năm 1963, nhân dân các dân tộc tỉnh Điện Biên vui mừng, khôn xiết đón 2.000 TNXP từ mọi miền đất nước về xây dựng công trình Đại Thủy nông Nậm Rốm. Công trình là minh chứng hùng hồn thể hiện tinh thần đoàn kết, vượt qua mọi khó khăn gian khổ của quân và dân ta dưới sự lãnh đạo tài tình của Đảng, Nhà nước, không chỉ có ý nghĩa to lớn để phục vụ tưới tiêu, phát triển kinh tế - xã hội để lấy lúa gạo sẵn sàng cung cấp lương thực cho chiến trường mà còn có giá trị lớn lao về ý nghĩa lịch sử…

Cánh đồng Mường Thanh, tỉnh Điện Biên - vựa lúa Tây Bắc. Ảnh: Trần Hương. 

Cánh đồng Mường Thanh, tỉnh Điện Biên - vựa lúa Tây Bắc. Ảnh: Trần Hương. 

Nhờ có công trình thủy nông này mà cánh đồng Mường Thanh ngày càng được mở rộng. Nếu năm 1984, tổng diện tích lúa 2 vụ của tỉnh Điện Biên là gần 2.400ha thì đến năm 2020, tổng số diện tích lúa 2 vụ của tỉnh này đã tăng lên hơn 7.000ha. Tỉnh Điện Biên từ chỗ thiếu lương thực đến nay đã có thể cung cấp lương thực cho các địa phương khác. Trên hành trình từ thụ động đến chủ động trong lương thực, là những nỗ lực phi thường, là trí tuệ và sự đóng góp của lớp lớp nông dân Điện Biên... đặc biệt, là các đội sản xuất thuộc Sư đoàn 316 tình nguyện ở lại Điện Biên, trong đó có công nhân của làng C4.

Người lái máy cày Liên Xô ở chiến trường Điện Biên Phủ

Ngày ấy, mảnh đất C4  là bãi hoang ngập nước, lau sậy um tùm. Những người lính vừa rời chiến hào, lại khoác lên mình tấm áo nông dân. Họ cắm chông giữ đất, cắm hom sắn, hom mía giữa mịt mù sương núi. Không còn tiếng súng, nhưng mỗi nhát cuốc, mỗi đường cày được ví như một trận đánh mới; đánh đổi mồ hôi để giữ lấy sự sống, gây dựng bản làng từ vùng đất đạn bom.

Cụ ông Nguyễn Khắc Kế (thôn C4, xã Thanh Hưng cũ) nay là Thanh Nưa; bộ đội Sư đoàn 316, nguyên cán bộ lái máy kéo thuộc đội sản xuất C4, Nông trường Quốc doanh Điện Biên kể: Giai đoạn đó Sư đoàn 316 lên Điện Biên gồm có Trung đoàn 98 có nhiệm vụ làm đường từ Tuần Giáo vào Điện Biên; Trung đoàn 174 đánh đồi A1 bấy giờ trở lại Điện Biên và Trung đoàn 148; toàn bộ là lính già, gọi là lính chống Pháp và tất cả đều thuộc Sư đoàn 316 trở lại Điện Biên với nhiệm vụ Bác Hồ dặn: Bảo vệ biên cương và xây dựng Nông trường.

"Năm 1958, chúng tôi đi từ Phú Thọ lên Điện Biên mất 21 ngày. Trước khi đi Bác Hồ dặn: “Lên đấy, các chú có trách nhiệm bảo vệ biên cương và xây dựng vùng kinh tế”.

Lặng im hồi lâu, người lính già 92 tuổi, quê Hải Phòng xoa trán cố nhớ lại cảm xúc ngày đầu, ông chậm rãi mà rành rọt: "Khi ấy tôi tròn 24 tuổi, còn trẻ lắm, chưa biết Điện Biên là ở đâu, lên đấy làm công việc gì cụ thể. Nghe Bác ra lời kêu gọi thanh niên lên đường bảo vệ biên cương thì tham gia. Sư đoàn 316 của chúng tôi khi ấy khoảng hơn 1.000 người. 

Trung đoàn chúng tôi được phân về các đội sản xuất từ đội 1 đến đội 4. Sau này chuyển sang từ C1 đến C18, tức là cứ ở đâu mà có chữ “xê” thì ở đó thuộc lính Sư đoàn 316. Còn có 2 phân trường ngoài Mường Ảng nữa, thuộc C21, C22…

Ngày 14/4/1958, tôi được phân về bản Mé, xã Thanh Hưng (nay là Thanh Nưa), chúng tôi khai hoang ở đây. Khu vực Ngã tư C4 chị vừa đi qua, toàn bộ khu ấy trước đây toàn cỏ lau, cây “chó đẻ” mọc um tùm, chỉ có đường mòn. Giai đoạn chúng tôi vẫn mặc quần áo lính, vẫn hưởng tiêu chuẩn của quân nhân. Đến hết năm 1960, chúng tôi hết đời lính chuyển sang làm công nhân Nông trường Quốc doanh Điện Biên cho đến khi nghỉ chế độ".

Tháng 1/1961, trước khi chuyển sang làm công nhân; cấp trên có dặn dò, ai muốn ra quân trở về địa phương thì về. Ai ở lại xây dựng Nông trường thì ở. Lúc bấy giờ có khẩu hiệu “lấy Tây Bắc làm quê hương, lấy nông trường làm gia đình”. Lúc đó Đại tướng Võ Nguyên Giáp có nói với chúng tôi: “Các đồng chí chưa có gia đình thì sẽ đưa nam nữ thanh niên Hà Nội, Hưng Yên, Thái Bình, Nam Hà… lên để cùng xây dựng Đại Thủy nông Nậm Rốm và cùng xây dựng Nông trường sản xuất lúa gạo phục vụ cho cách mạng, kháng chiến ở Miền Nam. Còn những đồng chí nào có vợ con thì về đưa vợ con lên, cùng tham gia sản xuất ở Nông trường”.

Cụ Nguyễn Khắc Kế (92 tuổi), bộ đội Sư đoàn 316, công nhân lái máy kéo Nông trường Quốc doanh Điện Biên giai đoạn 1958-1978. Ảnh: Trần Hương. 

Cụ Nguyễn Khắc Kế (92 tuổi), bộ đội Sư đoàn 316, công nhân lái máy kéo Nông trường Quốc doanh Điện Biên giai đoạn 1958-1978. Ảnh: Trần Hương. 

"Giai đoạn đó, lính chúng tôi (sau là công nhân Nông trường) ở lại Điện Biên tương đối nhiều. Ngay làng C4 đây toàn bộ là cán bộ Nông trường giai đoạn đầu, lên Điện Biên từ những năm 1958 – 1959. Anh nào có vợ thì được chia đất dựng nhà riêng, anh nào chưa vợ thì Nông trường dựng nhà tập thể ở đây. Khi ấy, khí thế lao động sản xuất lúa gạo, ngô, khoai, sắn rất mạnh mẽ… Toàn bộ cánh đồng Mường Thanh khi ấy chỉ cấy lúa 1 vụ mùa, vì vụ chiêm không có nước. Tôi nằm trong đội máy kéo của Nông trường Quốc doanh Điện Biên thời bấy giờ, tôi lấy bà nhà tôi là nữ thanh niên Thái Bình lên đợt đầu".

Cụ Kế cười hóm hỉnh: "Ngày ấy nghèo lắm cô! Có gì đâu, mỗi cái ba lô và vài bộ quần áo. Thế mà cưới được vợ. Cưới vợ xong, Công đoàn Nông trường làm cho 2 gian nhà vách đất, lợp lá mía… Bà nhà tôi tham gia đội sản xuất còn tôi thì ở đội lái máy cày".

Ngừng giây lát, người lính già nhấp ngụm nước rồi kể về chiếc máy cày gắn bó với cụ: “Nó là của Liên Xô, mỗi đường cày rộng 1,7m; gồm 5 lưỡi, sáng loáng. Tôi đi học lớp kỹ thuật ở Bộ Nông nghiệp có bằng xanh về kỹ thuật lái máy, số người có bằng xanh chuẩn kỹ thuật lái máy như tôi thời bấy giờ rất hiếm”.

Theo lời cụ Kế, những ngày đi cày ruộng ở cánh đồng Mường Thanh, gặp phải mìn cóc, rồi áo dù, bình tông, mũ sắt của lính Pháp. Cụ kể cả những lần người đồng nghiệp của cụ bị mìn nổ nát 1 chân phải cưa đi để giữ mạng… Những năm tháng ấy làm cụ Kế vừa xúc động vừa thấy tự hào.

Năm 2022, cụ là một trong số ít công nhân của Nông trường Quốc doanh Điện Biên nhận được Huy chương Vì sự nghiệp Nông nghiệp Điện Biên giai đoạn 1958 – 1978.

Cụ bảo: “Ngày ấy vất vả nhưng tươi đẹp lắm, làm gì cũng trọn lòng, trọn sức, trọn tình vẹn nghĩa. Những người đi trước chúng tôi đều vậy, sống bằng sức lao động, bằng lòng kiên trì và bằng tình người thắm thiết…”.

*** 

Làng C4 nay khác xưa nhiều lắm! Nhưng ký ức hào hùng của những người lính năm xưa thì vẫn vẹn nguyên. Mùa theo mùa lặng lẽ mà tha thiết; bền bỉ và kiên cường nhắc nhớ: nơi đây đã từng có một thời như thế!

Xem thêm
Vì sao cầu thuộc dự án thủy lợi sông Lèn chưa được khai thác?

Cầu thuộc dự án thủy lợi sông Lèn vẫn chưa được đưa vào khai thác do đang chờ phê duyệt quy trình vận hành và hoàn tất đào tạo, chuyển giao kỹ thuật.

Chuyện chưa kể về thú y cơ sở: [Bài 7] Học tiếng Mông để chữa bệnh vật nuôi

TUYÊN QUANG Nhiều cán bộ thú y tự học tiếng Mông để giao tiếp, hướng dẫn bà con chăm sóc, điều trị vật nuôi. Nhiều người ở lại vùng núi, như hạt mầm bén rễ thành cây.

Bình luận mới nhất

Làng… C4
Xã hội 11 giây trước