Thời gian gần đây xuất hiện tình trạng cá nuôi tại vùng biển thôn Cặp Tiên, đặc khu Vân Đồn (Quảng Ninh) bị chết hàng loạt, chủ yếu là cá dìa, cá chim vây vàng, cá song, cá giò.
Trong tháng 10/2025, Chi cục Biển, Hải đảo và Thủy sản, Kiểm ngư (Sở Nông nghiệp và Môi trường) đã phối hợp với Trung tâm Quan trắc Môi trường và Bệnh thủy sản miền Bắc thực hiện thu mẫu tại vùng nuôi cá biển thôn Cặp Tiên, đặc khu Vân Đồn để xác định nguyên nhân.
Cá chết nổi trắng mặt nước trong lồng nuôi của hộ dân ở Vân Đồn. Ảnh: Cường Vũ.
Trên cơ sở phiếu kết quả phân tích mẫu từ Trung tâm Quan trắc Môi trường và Bệnh thủy sản miền Bắc, cho thấy các thông số như nhiệt độ, pH, DO, độ mặn, COD, N-NO2-, H2S, P-PO4 3-, TSS, sắt đều nằm trong giới hạn cho phép. Không phát hiện tảo độc trong các mẫu nước phân tích.
Tuy nhiên, độ kiềm và N-NH4+ tại một số điểm quan trắc có giá trị không phù hợp (độ kiềm có giá trị thấp hơn ngưỡng giới hạn cho phép, phản ánh khả năng đệm của nước kém, khiến hệ sinh thái dễ bị tổn thương trước những biến động của pH; N-NH4+: có giá trị cao hơn ngưỡng giới hạn cho phép).
Kết hợp với độ mặn thấp (20%), bằng chứng rõ ràng cho thấy khu vực nuôi đã trải qua hiện tượng pha loãng quy mô lớn bởi nước ngọt sau mưa bão. Đây là các "chỉ báo" cho thấy môi trường nền đã bị suy giảm đột ngột do hiện tượng mưa lũ gần đây, là các điều kiện bất lợi làm suy yếu sức khỏe và khả năng chống chịu của cá nuôi.
Cán bộ thực hiện lấy mẫu tại thực địa. Ảnh: Thu Hiền.
Để kịp thời triển khai những biện pháp khắc phục biến động của môi trường và ngăn chặn tác nhân gây dịch bệnh cho động vật thủy sản nuôi, Chi cục Biển, Hải đảo và Thủy sản, Kiểm ngư đã có văn bản đề nghị phòng Nông nghiệp và Môi trường đặc khu Vân Đồn thông tin kết quả "quan trắc môi trường vùng nuôi cá biển thôn Cặp Tiên, đặc khu Vân Đồn" đến chủ các cơ sở nuôi trồng thủy sản trong địa bàn quản lý.
Đồng thời đề nghị các địa phương có biển, các doanh nghiệp, hợp tác xã, các cơ sở nuôi trồng thủy sản chủ động phối hợp triển khai một số nội dung:
Tuân thủ khung lịch mùa vụ thả giống, chọn giống thủy sản tại các cơ sở được cơ quan có thẩm quyền cấp giấy đủ điều kiện sản xuất, ương dưỡng giống thủy sản, thực hiện kiểm dịch giống theo quy định, lưu giữ các loại hóa đơn, chứng từ làm cơ sở cho việc truy xuất nguồn gốc.
Quản lý giống, thức ăn, sản phẩm xử lý môi trường nuôi trồng thủy sản: Hạn chế sử dụng thức ăn cá tạp làm thức ăn để tránh lây nhiễm chéo các bệnh truyền nhiễm; bổ sung thêm các loại vitamin và khoáng chất vào khẩu phần ăn để tăng cường sức đề kháng cho cá trong giai đoạn chuyển mùa; chỉ sử dụng thuốc, hóa chất, chế phẩm sinh học và chất xử lý cải tạo môi trường dùng cho nuôi trồng thủy sản và được phép lưu hành tại Việt Nam, còn hạn sử dụng. Khi sử dụng thuốc kháng sinh phải xác định rõ tác nhân gây bệnh, sử dụng theo hướng dẫn của nhà sản xuất hoặc cán bộ chuyên môn.
Chủ động phòng chống thiên tai và đảm bảo an toàn cho người và tài sản: Quản lý các yếu tố môi trường trong thời gian giao mùa, thời điểm thời tiết nắng gắt kèm theo mưa lớn; áp dụng các biện pháp quản lý tổng hợp để duy trì chất lượng nước ổn định, thường xuyên theo dõi, quan sát lồng bè nuôi để có biện pháp xử lý kịp thời. Nếu thấy môi trường nước xấu, cá kém ăn hoặc xuất hiện bệnh phải có biện pháp xử lý kịp thời; không di chuyển cá từ lồng/bè này sang lồng/bè khác khi đang có bệnh xảy ra.
Đối với các hộ gia đình, cá nhân được giao khu vực biển, cần tiếp tục hoàn thiện hồ sơ đăng ký nuôi trồng thủy sản lồng bè, đối tượng thủy sản nuôi chủ lực nộp hồ sơ tại Chi cục Biển, Hải đảo và Thủy sản, Kiểm ngư để được xác nhận theo quy định.
Đồng thời chủ động nắm tình hình, kịp thời thông tin những diễn biến bất thường trong hoạt động nuôi trồng thủy sản trên địa bàn quản lý với Chi cục Biển, Hải đảo và Thủy sản, Kiểm ngư và Chi cục Chăn nuôi và thú y để phối hợp giải quyết.





























