Điều gì có lợi là làm
Biết mình đã cho nhầm số, chị cười nắc nẻ rồi giải thích "cái nghiệp kinh doanh nó đã ngấm sâu vào người mình tự lúc nào rồi". Chị là Trần Thị Hiền - Trưởng thôn Tây Sơn, đồng thời là chủ trang trại Tây Sơn (Tây Sơn Farm). Buổi chiều hôm đó chị hết dẫn tôi lên những triền đồi trồng bạt ngàn ba kích tím, chỗ chuẩn bị cho thu củ, chỗ đang mới nhú lá non rồi lại vòng về thăm nhà xưởng và thử uống cao ba kích.
Chỉ mươi năm về trước, Tây Sơn còn là mảnh đất bán sơn địa heo hút và nghèo đến nỗi bị người đời chế giễu là chuẩn bị tay gậy tay bị đến nơi. Chị Hiền có nghề làm ruộng nhưng lúc nông nhàn thì bắt cua, bắt rắn rồi chuyển sang buôn đủ thứ nông sản, hễ cái gì có lợi nhuận là buôn. Chị cũng là 1 trong 4 hộ chăn nuôi lợn quy mô đầu tiên trong thôn, để rồi từ đó phát triển thành 71 hộ nuôi như hiện tại.
Thấy chị miệng nói, tay làm, năm 2019 dân làng bầu làm trưởng thôn và trở thành thủ lĩnh của mọi phong trào. Khi kinh tế gia đình mình đã vững chắc, chị ngoảnh lại thấy cảnh quê hương đồi núi trơ trọi, nhiều chỗ còn bỏ hoang, trong khi đó người dân phải đi tha phương làm thuê nên nghĩ đến chuyện đưa cây ba kích tím về trồng. Họp chi bộ thôn, người ta toàn đưa ra những lý do để không thể trồng ba kích ở Tây Sơn như sợ đất không hợp, sợ không tìm được chỗ bao tiêu nên chẳng ai ủng hộ.

Chị Trần Thị Hiền bên vườn ba kích chuẩn bị cho thu hoạch. Ảnh: Dương Đình Tường.
Vậy là chỉ có chị cùng với người em họ Trần Quang Thảo góp chung vốn được 350 triệu đồng để phá 1,2 ha bạch đàn trồng ba kích tím. Hơn 3 năm sau họ “bán non” hơn 1,1 ha với giá 100.000đ/kg, thu được 1,2 tỷ đồng. 2 sào còn lại họ giữ tiếp đến 2 năm sau thì bán tiếp với giá 85.000đ/kg thu được hơn 300 triệu đồng nữa. Sau khi chia đôi khoản lợi nhuận hơn 700 triệu đồng, hai chị em đầu tư trồng riêng. 5 hộ khác trong thôn thấy họ trồng ba kích tím cho hiệu quả kinh tế cũng học hỏi theo. Tổ hợp tác trồng cây dược liệu ba kích xã Thái Hòa ra đời là nơi để mọi người cùng trao đổi những vấn đề kỹ thuật cũng như thị trường.
Chỉ tay vào cái tủ xếp đầy những bó găng tay, chồng chị Hiền giải thích: “Vợ chồng tôi hầu như ngày nào cũng phải đeo găng tay đi nhổ cỏ, thế mà làm ở đầu nương cuối nương cỏ đã mọc lên rồi. Chúng tôi chỉ nhổ cỏ như thế trong hai năm đầu chứ không xới bởi sợ đứt rễ cây, đến năm thứ ba mới che phủ nylon. Để cỏ mọc rồi nhổ có cái lợi là sẽ phá vỡ được màng đất, giúp đất được “thở” và tơi xốp chứ không như phủ kín nylon ngay từ đầu khiến đất bị nén và bí. Về chăm sóc, chúng tôi chỉ dùng phân chuồng, bón trên bề mặt đất chứ không vun cũng bởi sợ ảnh hưởng đến rễ cây. Ba kích là cây hoang dã nên có sức đề kháng tốt, ít sâu bệnh nên không cần phun nhiều thuốc”.

Một góc vườn ba kích trưởng thành nhìn từ trên cao. Ảnh: Dương Đình Tường.
Cầu kỳ chuyện nấu cao ba kích
Từ khi mới bắt tay vào trồng ba kích tím chị Hiền đã nghĩ đến việc chế biến củ thành cao để gia tăng giá trị đồng thời dễ vận chuyển, dễ bảo quản, không sợ ế. Năm 2019, chị đi mua củ ba kích về rồi thuê hai người dân tộc Dao ở huyện Ba Chẽ, tỉnh Quảng Ninh, thủ phủ của ba kích tím, về nhà dựng lò nấu cao. Sau 4 mẻ, họ rời đi, chị mày mò tự nấu. Lúc đầu thất bại phải đổ bỏ, mất hàng chục triệu đồng nhưng cuối cùng rồi cũng thành công.
Đến khi củ ba kích vườn nhà được 5 tuổi, chị lấy chính nguồn nguyên liệu này để nấu cao. Cứ hơn 10 kg củ tươi thì cho 1 kg cao. Mùa nấu cao bắt đầu từ tháng 9, khi hàm lượng nước trong củ ba kích đã rút đi. Khi nấu phải bỏ lõi và dập củ. Trước đây việc dập củ kiểu thủ công rất tốn sức nên chồng chị Hiền sáng chế ra cái máy dập giúp giải phóng công đoạn nặng nhọc này.
Họ chọn củi làm nhiên liệu để chủ động điều chỉnh, tiết chế nhiệt trong suốt quá trình nấu cao kéo dài 4, 5 ngày. Hai ngày đầu thúc lửa để sôi mạnh, hai ngày sau hãm lửa để sôi lim dim, nửa ngày cuối dập lửa để chỉ toàn là than đỏ. Cầu kỳ hơn, trong 4 ngày đầu nấu bằng nồi đồng đỏ, giữ nhiệt tốt và nóng dữ dội, còn nửa ngày cuối chuyển sang nấu bằng nồi nhôm, giữ nhiệt vừa và nóng dịu êm.
Suốt quá trình nấu vợ chồng chị phải thay ca nhau mà thức, túc trực bên nồi cao để liên tục vớt bọt. Chỉ cần lơ đãng mà để nước sôi trào ra, chất bổ trôi hết xuống tro là coi như mất trắng cả mẻ cao, phải bỏ 40 kg củ lúc này chẳng khác gì đống bã thải.

Chị Trần Thị Hiền bên những lọ cao ba kích. Ảnh: Dương Đình Tường.
Chị Hiền giới thiệu, trung bình mỗi khóm ba kích cho 3,5-4 kg củ nhưng có những khóm kỷ lục nặng tới 6-7 kg. Xưởng cứ nấu theo kiểu cuốn chiếu, củ già thu trước nấu trước, củ non thu sau nấu sau: “Chất lượng củ sẽ quyết định chất lượng cao, còn đặc hay lỏng là do kỹ thuật nấu. Hiện trung bình mỗi năm tôi nấu được 400 kg cao, với giá bán 2 triệu đồng/kg, cho tổng thu 800 triệu đồng, lãi gấp rưỡi so với bán củ tươi”.
Điều đáng nói là từ một nông dân chỉ biết sản xuất, chị không ngần ngại học kỹ thuật livestream trên facebook để bán mỗi phiên cả vài chục triệu đồng tiền hàng. Trước khi ra về, chị tặng tôi gói bột sắn và lọ cao ba kích. Cả hai đều dán nhãn Tây Sơn farm. Tò mò, tôi hỏi nhãn hiệu này hàm chứa ý nghĩa gì, chị bảo mình đủ khả năng để tự phát triển kinh tế gia đình nhưng muốn lấy thương hiệu là tên của cả thôn để phát triển kinh tế cộng đồng. Hiện nay trong thôn đang có 7 ha ba kích, 1 ha sắn dây, sắp tới sẽ phát triển thêm nghệ để chế biến tinh bột, dứa và mở rộng nghề nuôi hươu lấy nhung từ 10 con đang có.
“Định hướng của thôn chúng tôi là phát triển du lịch nông nghiệp dược liệu nên đã ra hương ước cấm thuốc trừ cỏ cháy, các hộ chăn nuôi quy mô đều phải có bể biogas. Khi xảy ra dịch tả lợn Châu Phi, nhiều nơi còn để tình trạng vứt lợn chết lung tung nhưng ở đây không hề có. Người dân trong thôn còn ủng hộ hơn 3.000 ngày công để xây mương, xây cống cứng có nắp đậy dẫn nước thải, đảm bảo việc vệ sinh môi trường. Nhờ đó mà Tây Sơn đã trở thành thôn nông thôn mới kiểu mẫu”, chị Hiền khẳng định.