Làm nông nghiệp tử tế phải giữ đất, giữ nước, giữ môi trường
Ông Phạm Xuân Luận, Giám đốc HTX Dịch vụ Nông nghiệp An Thanh, xã Chí Minh, TP Hải Phòng, mong nông nghiệp quê mình đi vững trên con đường xanh để rươi, cáy, lúa cùng nuôi đất và giữ môi trường.
Con rươi đã ở đất này từ lâu lắm rồi. Ngày xưa, dân làng chỉ đánh bắt tự nhiên, tới mùa thì lội ruộng, chống thuyền mà xúc rươi. Năm 2005, mấy hộ bắt đầu gom đất ngoài bãi, vốn là chỗ trồng đay, trồng cói hay cấy lúa bấp bênh, để giữ môi trường, tạo điều kiện cho rươi, cáy phát triển.

Ông Phạm Xuân Luận, Giám đốc HTX Dịch vụ Nông nghiệp An Thanh, xã Chí Minh, TP Hải Phòng. Ảnh: Bảo Thắng.
Tới 2013, khi xã An Thanh (nay là xã Chí Minh) dồn điền đổi thửa xong, cái đà biến đất bãi thành ruộng rươi lại càng mạnh. Vùng này được cách ly với ruộng lúa xung quanh bằng con đê vững chãi, rặng tre chắn sóng xanh quanh năm, nên năng suất rươi ổn định, khoảng 40 kg mỗi sào.
Nông dân chúng tôi đã bỏ hết thuốc bảo vệ thực vật, bỏ phân hóa học, để gìn giữ môi trường cho rươi phát triển. Máy xúc đưa vào đắp bờ, quây vùng, xây cống điều tiết nước cho từng ô thửa riêng. Đất thì cải tạo bằng cách nuôi phân bón tại chỗ như trồng chuối trên bờ, đến khi lớn thì băm nhỏ thả xuống ruộng cùng rơm rạ, làm đất thêm tơi xốp. Thỉnh thoảng còn rắc bột ngô để nuôi màu cho đất.
Không phải muốn thu nhập từ lúa mà vẫn cấy, mà cấy để che chở cho rươi khi thời tiết khắc nghiệt. Nuôi rươi nhưng bà con vẫn cày bừa, làm cỏ, đi lại trên ruộng như bình thường.
Làm ruộng rươi như vậy vừa giữ được nguồn lợi tự nhiên, vừa giảm phát thải so với làm lúa hai vụ. Trước đây cấy lúa nước quanh năm, phân bón, thuốc thang nhiều, khí nhà kính phát ra cũng nhiều. Giờ một vụ lúa, một vụ rươi, vừa nhàn hơn, vừa có thêm thu nhập. Lại sạch, lại bền.
Chúng tôi cũng giữ môi trường sống cho rươi và cáy bằng cách tuyệt đối không đánh bắt cá, tôm, cua ngoài sông bằng xung điện. Chỉ một lần xung điện là cả khúc sông coi như xong, rươi dưới ruộng cũng mất dần. Việc này không chỉ một xã làm được, mà phải cả vùng, nhiều xã liền nhau cùng giữ.
Khó nhất bây giờ là điều tiết nước. Làm hai vụ lúa thì cống, mương như cũ vẫn đủ. Nhưng nuôi rươi thì khác: cống phải to, mở nhanh, tháo nhanh, nguồn nước phải sạch và chủ động. Cống bé, mở chậm, nước tù là rươi kém hẳn. Nhiều công trình thủy lợi giờ phải làm lại, nâng cấp mới đủ tiêu chuẩn cho rươi.
Sau khi sáp nhập, xã Chí Minh giờ rộng hơn, có đủ cả đường bộ, đường sông, hạ tầng thông thương thuận lợi. Đây là tiền đề để thương hiệu rươi Tứ Kỳ phát triển ra xa hơn. Tôi tin, nếu làm đồng bộ, thương hiệu này không chỉ có ở chợ quê mà có thể vào siêu thị, nhà hàng lớn, xuất khẩu ra nước ngoài.
Không chỉ rươi, lúa ST25 trồng ở đây cũng đang dần có chỗ đứng. Lúc đầu, nhiều người nghĩ lúa miền Nam sao hợp đất miền Bắc, nhưng khi ăn thử mới thấy vị đậm đà riêng. Từ chỗ hoài nghi, giờ khách đặt nhiều, có khi chưa gặt đã hết hàng. Điều này cho thấy, nếu làm tử tế, biết giữ chất lượng, thì sản phẩm nào cũng sẽ được thị trường đón nhận.
Tôi nhớ nguyên Bộ trưởng Lê Minh Hoan 3 lần về đây đều nhắc “làm nông nghiệp tử tế”. Với tôi, nông nghiệp tử tế là làm ra thứ mình dám ăn, dám mời khách, dám để con cháu dùng hằng ngày. Nông dân tử tế thì sản phẩm mới bền.
Điều đặc biệt, Quyền Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Môi trường Trần Đức Thắng, nguyên Bí thư Tỉnh ủy Hải Dương, cũng nhiều lần cùng ông Lê Minh Hoan về với Ngày hội Lúa rươi hữu cơ Tứ Kỳ. Chúng tôi trân trọng sự quan tâm ấy, vì đó không chỉ là sự ủng hộ tinh thần, mà còn là niềm tin để nông dân yên tâm làm ăn theo hướng xanh, sạch.
Từ 1/7, cả nước thực hiện chính quyền hai cấp, bỏ cấp huyện. Xã Chí Minh giờ bao gồm nhiều xã cũ của huyện Tứ Kỳ. Quy mô lớn hơn, trách nhiệm cũng lớn hơn. Muốn bảo vệ môi trường, giữ thương hiệu rươi, lúa, cáy… thì phải có quy hoạch chung, hành động chung, và sự gắn kết của nhiều thôn, nhiều vùng.
Tôi mong nông nghiệp quê mình, và rộng hơn là cả nước, sẽ đi vững trên con đường nông nghiệp xanh, không chỉ trồng trọt sạch mà còn giữ được vòng tuần hoàn tự nhiên: Cây cối nuôi đất, đất nuôi rươi, cáy, rồi chính rươi, cáy trả lại màu mỡ cho đất. Làm sao để nông dân không còn phụ thuộc quá nhiều vào phân, thuốc mua ngoài, mà tận dụng được chính những gì đồng ruộng, bờ bãi ban tặng.
Tôi cũng mong Bộ Nông nghiệp và Môi trường tiếp tục mở lối cho nông sản sạch ra thị trường, tạo điều kiện cho HTX tiếp cận công nghệ mới, vừa giữ được bản sắc sản xuất truyền thống, vừa đáp ứng yêu cầu của người tiêu dùng hiện đại. Nông nghiệp xanh, nông nghiệp tuần hoàn hay nông nghiệp tử tế, gọi thế nào cũng được, với tôi chỉ là một: Làm sao cho đất, nước, cây, con và người cùng khỏe. Có vậy thì quê hương mới giàu, mà môi trường vẫn bền lâu.
Đồng ruộng là điểm khởi đầu của sản xuất xanh
Những ngày đầu tham gia mô hình thí điểm Đề án 1 triệu hecta lúa chất lượng cao, ông Nguyễn Cao Khải, Giám đốc HTX Tiến Thuận (xã Vĩnh Thạnh, TP. Cần Thơ), vẫn nhớ rõ ánh mắt lưỡng lự của nhiều bà con nông dân.
“Thật sự khi đề án đưa ra, chúng tôi là những người thực hiện mô hình đầu tiên, bà con đánh giá khách quan là chắc không có hiệu quả tốt”, ông Khải chia sẻ.
Bởi trước đây, theo tập quán canh tác truyền thống, xã viên HTX Tiến Thuận đã mặc định rằng, sạ dày mới yên tâm, phân bón và thuốc bảo vệ thực vật dùng nhiều mới chắc ăn, rơm rạ đốt cho nhanh để kịp vụ sau. Không ai nghĩ đến việc khi thực hiện Đề án 1 triệu hecta lúa chất lượng cao, lượng giống có thể giảm hẳn từ 180kg/ha xuống còn 60kg/ha, mà năng suất vẫn tương đương, thậm chí lợi nhuận tăng.

Ông Nguyễn Cao Khải, Giám đốc HTX Tiến Thuận (xã Vĩnh Thạnh, TP. Cần Thơ).
Khi được ngành nông nghiệp TP. Cần Thơ lựa chọn triển khai mô hình thí điểm đề án đầu tiên ở ĐBSCL, HTX Tiến Thuận nhận sự hướng dẫn và hỗ trợ trực tiếp từ các đơn vị thuộc Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn, Sở Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn TP. Cần Thơ, Viện Nghiên cứu Lúa Quốc tế (IRRI) cùng các chuyên gia kỹ thuật. Không chỉ tập huấn lý thuyết, các cán bộ kỹ thuật “cầm tay chỉ việc” ngay trên đồng ruộng: từ khâu chọn giống, điều chỉnh lượng sạ, sử dụng phân bón hợp lý, đến kỹ thuật thu gom rơm rạ thay vì đốt bỏ.
“Ngày xưa tôi cũng muốn nắng lên, đốt rơm, xới đất lên cho nhanh, cũng không nghĩ đến lợi nhuận kinh tế từ rơm mang lại. Giờ bà con biết thu gom rơm để trồng nấm rơm, làm phân bón hữu cơ. Đó là điều mà trước đây không ai tưởng tượng được”, ông Khải kể.
Sau nhiều vụ canh tác, hiệu quả mô hình trở thành câu trả lời rõ ràng nhất cho những nghi ngờ ban đầu. Chi phí giống và vật tư giảm, năng suất giữ vững, lợi nhuận tăng ngay trong bối cảnh giá phân bón, thuốc bảo vệ thực vật leo thang. Đặc biệt, việc sản xuất theo quy trình giảm phát thải không chỉ bảo vệ môi trường mà còn giúp nông dân khỏe hơn vì giảm tiếp xúc hóa chất độc hại.
Điều đáng nói, khi giai đoạn thí điểm kết thúc và không còn nguồn tài trợ ban đầu, HTX Tiến Thuận không những duy trì mô hình mà còn mở rộng diện tích từ 50 ha lên 70 ha. Ông Khải bộc bạch, hy vọng rằng mô hình sẽ tiếp tục phát triển, lan tỏa nhiều hơn nữa. Đề án 1 triệu hecta lúa chất lượng cao đang mở ra một lộ trình mới cho bà con nông dân, mang tư duy sản xuất xanh, chuyển đổi xanh lan rộng khắp vùng ĐBSCL.
Ngày 14/8, tại Hà Nội, Phiên toàn thể Đại hội Đại biểu Đảng bộ Bộ Nông nghiệp và Môi trường lần thứ I, nhiệm kỳ 2025-2030 diễn ra. Đại hội Đảng bộ Bộ NN-MT lần thứ I đề ra mục tiêu phát triển kinh tế xanh, hiện đại đến năm 2030 và góp phần xây dựng Việt Nam hùng cường vào năm 2045.
Đồng chí Trần Hồng Hà dự, Ủy viên Trung ương Đảng, Ủy viên Ban Thường vụ Đảng ủy Chính phủ, Phó Thủ tướng Chính phủ dự và chỉ đạo Đại hội. Tham dự Đại hội có lãnh đạo các bộ, ngành Trung ương; nguyên lãnh đạo Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Bộ Tài nguyên và Môi trường và 259 đại biểu chính thức đại diện cho hơn 10.000 đảng viên thuộc 82 tổ chức đảng trực thuộc Đảng bộ Bộ Nông nghiệp và Môi trường.