Đến với “phên dậu xanh”
Đón chúng tôi tại ngôi nhà nhỏ sát mép rừng, anh Nguyễn Thành Công, Phó Giám đốc Ban Quản lý rừng đặc dụng Xuân Nha, cười bảo: "Nhà báo đến đúng lúc lắm, anh em đang họp chuẩn bị cho chuyến tuần rừng ngày mai.”
Theo chân anh Công vào chiếc lán nhỏ, hơn 20 thành viên tổ bảo vệ rừng bản Khò Hồng đang họp bàn phương án tuần tra. “Địa bàn hơn 33.000 ha mà chỉ có bằng này anh em. Không có sự chung tay của bà con thì khó mà giữ rừng được,” anh cười, chỉ lên tấm bản đồ tuyến đường dự kiến triển khai.
Anh Nguyễn Thành Công, Phó Giám đốc Ban Quản lý rừng đặc dụng Xuân Nha, trao đổi với người dân bản Khò Hồng về phương án tuần tra, bảo vệ rừng. Ảnh: Nguyễn Nga.
Bản Khò Hồng có hơn 160 hộ dân, 99% là đồng bào dân tộc Mông, được giao quản lý hơn 1.000 ha rừng đặc dụng. Đây là một trong những bản giữ rừng tốt, không để xảy ra cháy rừng, phá rừng làm nương rẫy. Công tác tuyên truyền được triển khai theo mùa, mùa khô tập trung vào phòng cháy chữa cháy, tuần tra rừng; mùa mưa thì chăm sóc rừng trồng, nghiêm cấm chăn thả gia súc vào khu vực rừng trồng.
Anh Phàng A Lâu, tổ trưởng tổ bảo vệ rừng bản Khò Hồng cho biết: Tổ có 24 thành viên, mỗi tháng đi tuần tra 3 lần; mùa khô thì nhiều chuyến hơn, nhất là những ngày nắng nóng cao điểm. “Mỗi chuyến đi tuần rừng đều bắt đầu từ sáng sớm đến tối muộn, có lúc phải đi 2-3 ngày. Nguồn kinh phí hỗ trợ thì khó đáp ứng công sức của bà con, chủ yếu nhờ quy ước, hương ước và bà con hiểu nên tự giác giữ rừng,” anh nói.
Theo Ban Quản lý rừng đặc dụng Xuân Nha, trước đây, đơn vị quản lý hơn 15.000 ha rừng đặc dụng; sau sáp nhập chính quyền địa phương hai cấp, phạm vi quản lý đã mở rộng lên hơn 33.000 ha rừng đặc dụng, phòng hộ, và sản xuất; trong khi chỉ có khoảng 25 công chức, viên chức kiểm lâm.
Rà soát bản đồ rừng trên tuyến tuần tra, thống nhất những vị trí trọng điểm cần theo dõi trong mùa khô hanh. Ảnh: Nguyễn Nga.
Từ đầu năm đến nay, lực lượng kiểm lâm đã tổ chức gần 150 đợt tuần tra bằng phần mềm SMART, ký hợp đồng khoán bảo vệ rừng với 16 cộng đồng bản, tổng diện tích hơn 11.200 ha. Cùng với đó, công tác tuyên truyền pháp luật, phòng cháy chữa cháy rừng được triển khai rộng rãi tới hơn 600 hộ dân sinh sống trong vùng lõi rừng đặc dụng, phát thanh bằng ba thứ tiếng Kinh - Thái - Mông.
Đồng thời, đẩy mạnh tuần tra, bảo vệ rừng, đã phát hiện 6 vụ vi phạm pháp luật lâm nghiệp, tang vật thu giữ gần 8 m³ gỗ các loại. Dù số vụ không lớn, nhưng mỗi vụ là cả một hành trình dài - có khi cả tuần băng rừng, ngủ lán, đi bộ hàng chục cây số trong điều kiện đường sá khó khăn.
Trăn trở nơi ranh giới chính sách
Đặc thù rừng đặc dụng Xuân Nha có hơn 10 km đường biên với nước bạn Lào và hơn 15 km giáp ranh với 2 xã của tỉnh Thanh Hóa. Bởi vậy, công tác quản lý, bảo vệ rừng gặp nhiều khó khăn do địa hình hiểm trở và ranh giới phức tạp.
Rừng đặc dụng của Sơn La giáp rừng sản xuất của Thanh Hóa - cùng một dãy núi nhưng chính sách khác nhau: bên mình là đất rừng đặc dụng, bên tỉnh bạn là rừng sản xuất. Không chỉ thế, vùng giáp ranh bên Thanh Hóa rất phù hợp với cây tre, luồng, lùng phát triển mạnh. Sự khác biệt ấy khiến tình trạng người dân vượt ranh giới khai thác, trộm cắp lâm sản vẫn xảy ra. Tháng 7 vừa qua, Ban quản lý rừng đặc dụng Xuân Nha phải tăng cường tất cả lực lượng lập 2 chốt trên khu vực giáp ranh, ăn rừng ngủ rừng suốt 2 tháng trời.
Sự chung tay của lực lượng kiểm lâm và bà con Xuân Nha đã giúp nơi đây không xảy ra cháy rừng suốt nhiều năm qua. Ảnh: Nguyễn Nga.
Ông Phạm Quang Cảnh, Hạt trưởng, Giám đốc Ban Quản lý rừng đặc dụng Xuân Nha cho biết: Vấn đề nổi cộm nhất hiện nay là hiện tượng rừng tre, lùng chết hàng loạt. Qua rà soát, hơn 1.600 ha rừng lùng tại 4 bản Lướt, Tây Tà Lào, Sa Lai và bản Ngà đã ra hoa, kết quả rồi chết khô - hiện tượng “diễn thế rừng” tự nhiên nhưng để lại lượng vật liệu cháy khổng lồ.
“Hơn 13 năm nay khu vực này được bảo vệ tốt, chưa cháy một lần nào. Nhưng vật liệu cháy lớn như vậy thì nguy cơ rất cao bùng phát cháy rừng, nhất là khi gió Lào thổi mạnh. Chúng tôi đã báo cáo lên UBND tỉnh, lên Sở, nhưng đây là rừng đặc dụng, lại nằm trong vùng lõi nên không thể đụng chạm,” ông Cảnh băn khoăn.
Không chỉ thiếu người, lực lượng bảo vệ rừng còn đối mặt nhiều thiệt thòi. Kiểm lâm trẻ Ly A Pó, dân tộc Mông ở xã Tạ Bú chia sẻ: Sau khi tốt nghiệp trường lâm nghiệp, vì tình yêu với rừng, anh bền bỉ thi vào ngành từ năm 2017, đến cuối năm 2021 mới đỗ. Nhờ biết tiếng dân tộc, giúp anh tuyên truyền đến bà con hiệu quả hơn, nhưng điều kiện làm việc còn nhiều thiếu thốn, không có phụ cấp đặc thù, nhiệm vụ kéo dài quanh năm, không kể ngày đêm, ngày nghỉ, lễ Tết.
“Mình có hai con nhỏ 4 và 6 tuổi, gia đình ở Tạ Bú cách đây gần 200 km. Thường thì 2 tuần về một lần, nhưng mùa cao điểm thì phải bám rừng 24/24, có khi mấy tháng mới về thăm nhà. Cộng thêm, khu vực này là vùng biên nên công tác tuần tra nhiều khi cũng rất nguy hiểm nếu gặp đối tượng vận chuyển ma túy”, anh chia sẻ.
Chung tay dọn thực bì, giảm vật liệu cháy trước mùa khô hanh 2025-2026. Ảnh: Nguyễn Nga.
Bên cạnh yếu tố nhân lực, ý thức và động lực của người dân tham gia bảo vệ rừng vẫn là thách thức lớn. Phần lớn cư dân trong vùng lõi và vùng đệm là đồng bào Mông, Mường, Thái - đời sống còn phụ thuộc vào rừng. Trong khi, chính sách chi trả dịch vụ môi trường rừng theo lưu vực sông Mã, bình quân từ mức 190.000 đồng/ha mọi năm, năm nay “nhích lên” 233.000 đồng/ha nhưng vẫn thấp.
Theo ông Cảnh, nghịch lý lớn nhất nằm ở chỗ: Các dự án trồng và phục hồi rừng đặc dụng chủ yếu mang tính bảo tồn, chưa gắn với sinh kế chính đáng. Người dân có nhu cầu trồng cây dược liệu dưới tán rừng - mô hình vừa đem lại thu nhập, vừa không gây hại rừng. Nhưng quy định chỉ cho phép ở phân khu dịch vụ, hành chính vốn có diện tích rất nhỏ, không phù hợp.
Trong khi đó, các dự án trồng phục hồi trong rừng đặc dụng lại không cho khai thác. Người dân tham gia trồng nhưng không được hưởng lợi, dẫn đến thiếu động lực. “Chính sách bảo tồn là đúng, nhưng nếu không có cách để người dân sống được cùng rừng thì khó bền vững”, ông Cảnh nói.
Hướng đi từ đồng quản lý và sinh kế xanh
Trước thực tế trên, Ban Quản lý rừng đặc dụng Xuân Nha đã phối hợp Trung tâm Con người và Thiên nhiên (PanNature) và nhiều tổ chức triển khai các mô hình đồng quản lý, kết hợp bảo tồn và phát triển sinh kế. Năm 2025, chương trình “Góp Lá vá rừng” đã hỗ trợ hơn 60.000 cây bản địa (dổi, trám, chò chỉ, quế, dẻ gai…) cho người dân trồng phục hồi rừng; triển khai hỗ trợ vật liệu xây dựng công trình công cộng cho 20 cộng đồng bản vùng đệm.
Đơn vị cũng đang liên kết với HTX Nông dược Mộc Sơn Long xây dựng phương án hợp tác, khảo nghiệm mô hình di thực trồng dược liệu dưới tán rừng đặc dụng, hướng tới “kinh tế xanh”.
Không khai thác, không mang lửa, không xâm lấn rừng... là những quy định được bà con Xuân Nha nghiêm túc thực hiện suốt nhiều năm qua. Ảnh: Nguyễn Nga.
Song song đó, công tác bảo tồn thiên nhiên được chú trọng. Xuân Nha hiện ghi nhận 1.161 loài thực vật, 542 loài động vật và hơn 700 loài côn trùng rừng tự nhiên; nhiều loài trong Sách Đỏ Việt Nam, có giá trị bảo tồn cấp khu vực và toàn cầu, là “bảo tàng sống” của thiên nhiên Tây Bắc.
Sự phong phú này đã thu hút nhiều trường đại học, viện nghiên cứu đến khảo sát như Viện Sinh thái và Tài nguyên sinh vật nghiên cứu đặc điểm sinh học và hiện trạng quần thể của một số loài chuột, dơi, chuột chù; Trung tâm Nhiệt đới Việt - Nga khảo sát đa dạng sinh học phục vụ đề tài về hệ sinh thái rừng nhiệt đới; Trường Đại học Lâm nghiệp Việt Nam nghiên cứu hiện trạng loài Cá cóc Pasmans (Tylototriton pasmansi)...
Từ những con số cụ thể ấy có thể thấy, dù còn nhiều khó khăn, rừng Xuân Nha vẫn đứng vững, xanh ngút ngàn nơi biên giới. Lãnh đạo Ban quản lý xác định mục tiêu là giữ vững diện tích rừng hiện có, nâng cao sinh kế vùng đệm, từng bước xã hội hóa công tác bảo vệ rừng.














![35 năm hình thành đàn bò chất lượng cao: [Bài cuối] Tiếp nối thành tựu](https://t.ex-cdn.com/nongnghiepmoitruong.vn/480w/files/tungvd/2025/11/17/5239-anh-gia-trai-bo-o-ca-1-1-nongnghiep-175228.jpg)













