Tiềm năng lớn từ thị trường EU
Liên minh châu Âu (EU) với hơn 450 triệu dân là một trong những thị trường thủy sản lớn nhất toàn cầu. Nhu cầu nhập khẩu hằng năm rất cao, đa dạng, từ tôm, cá tra, cá ngừ cho đến nhuyễn thể. Với quy mô khổng lồ và sức tiêu thụ ổn định, EU luôn nằm trong nhóm ba thị trường xuất khẩu thủy sản lớn nhất của Việt Nam.
Số liệu từ Hiệp hội Chế biến và Xuất khẩu thủy sản Việt Nam (VASEP) cho thấy, năm 2024, kim ngạch xuất khẩu thủy sản Việt Nam sang EU đạt khoảng 1,52 tỷ USD, chiếm 15% tổng giá trị xuất khẩu toàn ngành. Nhiều sản phẩm của Việt Nam đã ghi dấu tại châu Âu như cá tra, cá ngừ, tôm sú, tôm thẻ chân trắng và gần đây là nhuyễn thể hai mảnh vỏ. Đặc biệt, năm 2022, EU đã trở thành thị trường tiêu thụ lớn nhất đối với nhuyễn thể Việt Nam, chiếm tới 66% tổng kim ngạch xuất khẩu mặt hàng này.

EU là thị trường tiêu thụ các mặt hàng thủy sản lớn từ Việt Nam trong nhiều năm. Ảnh: Lê Bình.
Bên cạnh đó, việc Hiệp định thương mại tự do Việt Nam - EU (EVFTA) có hiệu lực từ tháng 8/2020 tạo lợi thế lớn khi nhiều dòng thuế được xóa bỏ, mở rộng cơ hội tiếp cận thị trường. Nhu cầu của người tiêu dùng châu Âu cũng đang dịch chuyển theo hướng ưu tiên sản phẩm giàu dinh dưỡng, tốt cho sức khỏe và có nguồn gốc bền vững là những yếu tố mà thủy sản Việt Nam có thể đáp ứng nếu tổ chức sản xuất tốt.
Với tiềm lực nuôi trồng lớn, sản lượng cá tra tăng từ 1,11 triệu tấn năm 2015 lên gần 1,8 triệu tấn năm 2024, tôm tăng 55% trong cùng giai đoạn, Việt Nam hoàn toàn có cơ sở để gia tăng xuất khẩu vào EU trong dài hạn.
Vì sao vẫn chưa xứng tầm?
Tuy tiềm năng rõ rệt, nhưng thực tế cho thấy thủy sản Việt Nam tại EU mới chỉ dừng ở mức “tham gia”, chưa tạo được chỗ đứng vững chắc.
Theo PGS.TS Nguyễn Văn Lịch, nguyên Tham tán công sứ, Đại sứ quán Việt Nam tại Italia, con số 1,52 tỷ USD năm 2024 tuy khả quan nhưng chỉ chiếm khoảng 3% tổng nhập khẩu thủy sản của EU. “Việt Nam đứng thứ 7 trong danh sách các nước xuất khẩu vào khu vực này, kém xa Na Uy hay Ecuador”, PGS.TS Nguyễn Văn Lịch thẳng thắn nhận định.
Nguyên nhân trước hết là rào cản kỹ thuật và pháp lý từ phía EU. Từ năm 2017, Ủy ban châu Âu đã áp dụng “thẻ vàng” IUU với thủy sản Việt Nam do vi phạm quy định chống khai thác bất hợp pháp. "Thẻ vàng" không chỉ kéo dài thời gian thông quan, làm tăng chi phí mà còn ảnh hưởng uy tín của thủy sản Việt trên thị trường.

"Thẻ vàng" IUU là một trong những nút thắt khó nhất khiến thủy sản Việt Nam khó vào thị trường EU. Ảnh: Lê Bình.
Thứ hai, ngành thủy sản Việt Nam còn hạn chế về quy mô sản xuất và liên kết chuỗi. Phần lớn hộ nuôi vẫn manh mún, dẫn đến khó kiểm soát chất lượng và truy xuất nguồn gốc vốn là yêu cầu then chốt của EU. Hệ thống logistics trong nước chưa đồng bộ, chi phí vận tải cao, trong khi kênh phân phối tại châu Âu chủ yếu qua trung gian, khiến giá trị gia tăng của doanh nghiệp Việt không cao.
Một yếu tố quan trọng khác là thương hiệu. “Trên kệ hàng châu Âu, sản phẩm Việt chủ yếu xuất hiện dưới dạng gia công, thiếu nhận diện quốc gia. Trong khi đó, các đối thủ đã thành công trong việc xây dựng thương hiệu tầm quốc tế, như cá hồi Na Uy hay tôm Ecuador", TS Nguyễn Thị Minh Phương, Học viện Ngoại giao, cho hay.
Ngoài ra, yêu cầu ngày càng khắt khe về phát triển bền vững, bảo vệ môi trường và trách nhiệm xã hội cũng là thách thức. Người tiêu dùng EU ưu tiên sản phẩm có chứng nhận ASC, MSC, GlobalGAP. Việt Nam tuy có nhiều nhà máy đạt chuẩn EU, song số lượng hộ nuôi đạt chứng nhận quốc tế vẫn còn hạn chế.