Chuyển từ “làm nhiều” sang “làm đúng”
Sau hai năm triển khai Đề án 1 triệu ha lúa chất lượng cao, phát thải thấp, VIETRISA đã xây dựng và đưa vào sử dụng nhãn hiệu “Gạo Việt xanh phát thải thấp”, trở thành tấm “hộ chiếu” quan trọng cho hạt gạo Việt.
Bên cạnh đó, VIETRISA đã cấp chứng nhận nhãn hiệu cho 8 doanh nghiệp với diện tích trên 18.000ha, cung ứng ra thị trường hơn 71.400 tấn gạo đạt chuẩn. Việt Nam tự hào là quốc gia đầu tiên xuất khẩu thành công 500 tấn gạo phát thải thấp sang thị trường khó tính như Nhật Bản vào tháng 5/2025.
Ông Lê Thanh Tùng - Phó Chủ tịch VIETRISA tổng kết một số kết quả triển khai Đề án 1 triệu ha lúa chất lượng cao trong năm 2025 và triển khai kế hoạch năm 2026. Ảnh: Kim Anh.
Con số trên dù mới chỉ chiếm một phần nhỏ trong tổng lượng gạo xuất khẩu nhưng là cột mốc niềm tin, minh chứng rằng Việt Nam có thể làm nông nghiệp bền vững ở quy mô lớn.
Tại sự kiện này, Phó Chủ tịch Quốc hội Lê Minh Hoan khẳng định, giá trị lớn nhất của Đề án 1 triệu ha lúa không nằm ở số lượng, diện tích mà là sự thay đổi hành vi của bà con nông dân. Ông nhấn mạnh tới tư duy dịch chuyển từ “làm nhiều” sang “làm đúng”.
Ở đó, mỗi thành phần đều đóng vai trò hạt nhân. Nông dân không còn đơn độc mà đã bắt đầu biết “sợ” khói rơm rạ, biết quý đất khỏe hơn là năng suất ảo. HTX là mắt xích quản trị, nơi chuyển hóa mệnh lệnh hành chính thành lợi ích kinh tế thực chất. Doanh nghiệp tham gia không chỉ vì ưu đãi mà còn vì uy tín và trách nhiệm xã hội. Nhà khoa học bước ra khỏi phòng thí nghiệm, lội bùn cùng bà con để hiện thực hóa các gói kỹ thuật hoàn hảo nhất.
Phó Chủ tịch Quốc hội Lê Minh Hoan chia sẻ về ý nghĩa của Đề án 1 triệu ha lúa sau hơn 2 năm triển khai. Ảnh: Kim Anh.
Một điểm nhấn sâu sắc trong quan điểm của Phó Chủ tịch Quốc hội là 1 triệu ha không chỉ là mục tiêu mà còn là lời hứa với nông dân, bà con được đồng hành, không bị bỏ lại phía sau. Đó còn là lời hứa với thị trường: “Gạo Việt Nam đi cùng trách nhiệm bảo vệ môi trường và là lời hứa với thế hệ mai sau về một con đường phát triển bền vững, dù chậm và khó hơn”.
Nguyên Bộ trưởng Bộ NN-PTNT Cao Đức Phát cũng khẳng định, đến năm 2025, Đề án 1 triệu ha lúa chất lượng cao đã tạo ra 3 đột phá lớn. Trước hết về nhận thức, Đề án là con đường duy nhất, đúng đắn cho ngành lúa gạo Việt Nam nói chung và ĐBSCL nói riêng nếu muốn phát triển bền vững, nâng cao thu nhập cho nông dân, đồng thời giải quyết bài toán môi trường và biến đổi khí hậu.
Phân tích bức tranh sản xuất lúa gạo toàn cầu, ông Phát cho biết thế giới hiện sản xuất khoảng 800 triệu tấn lúa mỗi năm, trong đó 90% tập trung tại Châu Á, chủ yếu ở 8 quốc gia gồm Ấn Độ, Trung Quốc, Bangladesh, Indonesia, Việt Nam, Thái Lan, Philippines và Myanmar.
So sánh hiệu quả kinh tế của các quốc gia này với Nhật Bản, ông Phát đánh giá nếu sản xuất theo đúng định hướng của Đề án 1 triệu ha, Việt Nam có thể đạt giá thành mỗi kg gạo thấp nhất trong nhóm các nước trồng lúa, đồng thời mang lại lợi nhuận cao nhất cho nông dân.
Nguyên Bộ trưởng Bộ NN-PTNT Cao Đức Phát đánh giá một số đột phá của Đề án 1 triệu ha lúa chất lượng cao. Ảnh: Kim Anh.
“Những gì Đề án 1 triệu ha lúa đã và đang làm mang lại lợi ích cao nhất cho nông dân và quốc gia thông qua ngành lúa gạo, đồng thời góp phần giảm phát thải khí nhà kính. Đây là con đường duy nhất, đúng đắn mà ĐBSCL phải kiên trì theo đuổi”, ông Phát nhấn mạnh.
Bên cạnh đó, Đề án còn tạo ra đột phá về tổ chức, một mô hình mà các chủ thể tham gia trên tinh thần tự nguyện, quy tụ được những tinh hoa về khoa học, công nghệ, kỹ thuật, kinh doanh và quản trị. Gói kỹ thuật của Đề án được xem là sự kết tinh những thành tựu cao nhất của ngành lúa gạo trong nước và quốc tế, đồng thời là quy trình giám sát, đo lường phát thải đầu tiên được ban hành chính thức.
Bước sang năm 2026, nguyên Bộ trưởng Cao Đức Phát cho rằng cần tạo ba đột phá mới cho Đề án, đó là bùng nổ mở cửa thị trường, bởi có thị trường mới có thể mở rộng diện tích; hoàn thiện cơ chế phối hợp, sử dụng hiệu quả các nguồn lực hỗ trợ nông dân, doanh nghiệp và nhà khoa học; đặc biệt là khai thông, tập trung nguồn lực tài chính, tín dụng, trong đó có các nguồn vốn hỗ trợ quốc tế.
Cần nhiều hơn những đột phá
Từ thực tiễn địa phương, ông Trần Chí Hùng – Phó Chủ tịch UBND TP Cần Thơ cho biết, Thành phố là địa phương có diện tích trồng lúa lớn thứ hai khu vực ĐBSCL, chỉ sau tỉnh An Giang.
Sau 2 năm triển khai Đề án 1 triệu ha lúa, TP Cần Thơ có điều kiện để nhân rộng với mục tiêu đến năm 2030 có khoảng 170.000ha. Tuy nhiên, khó khăn lớn hiện nay vẫn là sản xuất nhỏ lẻ, liên kết giữa HTX và doanh nghiệp chưa chặt chẽ. Việc đo đếm phát thải khí nhà kính dù đã có quy trình và thiết bị nhưng chi phí còn cao, phụ thuộc nhiều vào cán bộ kỹ thuật và chuyên gia.
Vì vậy, TP Cần Thơ kiến nghị cần đẩy mạnh tập huấn, sớm ban hành chuẩn cơ sở về đo đếm phát thải, đồng thời xây dựng thị trường carbon để người dân có thu nhập thực tế từ chứng chỉ carbon, qua đó tạo động lực tham gia Đề án.
Ông Trần Chí Hùng - Phó Chủ tịch UBND TP Cần Thơ (bìa phải) và nguyên Bộ trưởng Bộ NN-PTNT Cao Đức (bìa trái) Phát tặng biểu trương bông lúa vàng cho Phó Chủ tịch Quốc hội Lê Minh Hoan. Ảnh: Kim Anh.
Đối với tỉnh An Giang – vựa lúa lớn nhất vùng ĐBSCL, ông Trần Thanh Hiệp – Phó Giám đốc Sở Nông nghiệp và Môi trường tỉnh cho biết, năm 2025, diện tích lúa chất lượng cao chiếm 59% diện tích sản xuất toàn tỉnh, địa phương phấn đấu năm 2026 tiệm cận 70%. An Giang đã xác lập 375 vùng lúa chất lượng cao với hệ thống gần 700 HTX, khoảng 46.000 thành viên và đang tiếp tục được nâng chất.
Theo ông Hiệp, thời gian tới Đề án sẽ có nhiều thuận lợi khi doanh nghiệp đóng vai trò đầu tàu, cùng với lực lượng khuyến nông cộng đồng được tổ chức lại mạnh mẽ về tuyến xã. Đây là nền tảng quan trọng để mở rộng công nhận nhãn hiệu “Gạo Việt xanh phát thải thấp” và thúc đẩy doanh nghiệp tham gia sâu hơn vào chuỗi liên kết.
Dưới góc nhìn doanh nghiệp, ông Huỳnh Văn Thòn - Chủ tịch HĐQT Công ty cổ phần Tập đoàn Lộc Trời cho rằng, để mục tiêu Đề án thành công, vấn đề quan trọng cần giải quyết là đột phá về đầu ra.
Nhìn lại thất bại của mô hình cánh đồng mẫu lớn triển khai từ năm 2011, ông Thòn cho rằng đầu ra chính là nút thắt lớn nhất. Không có đầu ra sẽ không thể tổ chức vùng nguyên liệu lớn và triển khai được đầy đủ các mong muốn, cả lợi ích của nông dân.



























