Một vùng chè, một vùng văn hóa
Nếu hỏi miền đất nào in sâu trong tâm trí người yêu trà Việt Nam thì Thái Nguyên luôn hiện lên đầu tiên. Từ xa xưa, cây chè không chỉ đơn thuần là cây trồng hay sản phẩm nông nghiệp kinh tế mà còn là một biểu tượng văn hóa, gắn với lao động sản xuất, với đời sống vật chất, tinh thần người Thái Nguyên.
Từ cách người nông dân chăm bẵm cây chè, chọn thời điểm hái chè, nâng niu từng búp chè đến cách thưởng trà trong cuộc sống sinh hoạt đời thường và trong các buổi tiệc, các lễ hội đã dần hình thành nên một nét văn hóa trà đậm bản sắc, đưa thức uống quê hương vượt khuôn khổ ẩm thực dân gian, trở thành di sản sống trong đời sống tinh thần cộng đồng.
Nhà văn Phong Điệp (bìa trái) và nhà văn Tống Phước Bảo (giữa) trải nghiệm sao chè. Ảnh: Việt Hải.
Việc tổ chức các hoạt động văn hóa về chè và trà ở Thái Nguyên những năm gần đây được thực hiện một cách bài bản và chuyên nghiệp. Với mục tiêu vừa quảng bá giá trị văn hóa vừa kết nối sản xuất - tiêu dùng, đưa văn hóa kích cầu sản xuất nông nghiệp, tỉnh đã hình thành chuỗi sự kiện Lễ hội Văn hóa trà Thái Nguyên. Các chương trình giao lưu giao thương trà và du lịch trải nghiệm vùng chè cùng các hoạt động văn hóa gắn với trà như nghệ thuật pha trà, thưởng trà truyền thống, lễ hội hái búp đầu mùa… thu hút đông đảo người dân địa phương, khách du lịch trong và ngoài nước đến với vùng trà Tân Cương, La Bằng, Trại Cài, Khe Cốc - nơi được mệnh danh “Tứ đại danh trà”, góp phần ghi dấu Thái Nguyên trên bản đồ văn hóa trà quốc gia và toàn cầu.
Trong chuyến tham gia Đoàn công tác của các văn nghệ sĩ về vùng trà Thái, chúng tôi được tham quan Không gian Văn hóa Trà Tân Cương - biểu tượng của văn hóa trà Thái Nguyên. Nơi đây không chỉ trưng bày, giới thiệu hiện vật, tư liệu gắn với lịch sử chè qua các thời đại mà còn là điểm trình diễn các nghi lễ thưởng trà truyền thống. Những buổi trình diễn nghệ thuật pha trà, trải nghiệm quy trình hái - sao - vò chè từ nghệ nhân làm thấu tỏ hơn câu chuyện thăng trầm của cây chè và mối duyên của người Thái Nguyên với trà.
Ông Tạ Văn Lộc - Giám đốc Trung tâm thông tin tỉnh Thái Nguyên giới thiệu về vùng văn hóa trà với du khách. Ảnh: Việt Hải.
Văn hóa trà Thái Nguyên không chỉ nằm trong các nghi lễ mà còn lan tỏa qua âm nhạc, hội họa, văn học, cuộc thi viết, triển lãm trà quốc gia và khu vực, địa phương… khiến hình ảnh trà Thái từ sản phẩm nông nghiệp, ẩm thực trở thành đối tượng sáng tạo nghệ thuật, kết nối cộng đồng. Người ta thưởng trà và ngắm trăng, ngâm thơ, vẽ tranh và hát. Khi giới thiệu trà ra thị trường quốc tế, các nghệ nhân truyền tải những câu chuyện lịch sử, truyền thống và ý nghĩa nhân văn sâu sắc. Điều này không chỉ củng cố bản sắc văn hoá độc đáo mà còn tăng mạnh vị thế trà Thái Nguyên trong lòng người yêu trà.
Văn hóa dẫn lối, thúc đẩy phát triển chè sạch, hữu cơ, sinh thái
Từ văn hóa đặc sắc về chè và trà, Thái Nguyên đã biến di sản tinh thần này thành đòn bẩy khuyến khích ngành chè phát triển. Việc tổ chức các hoạt động văn hóa đã trực tiếp hỗ trợ xúc tiến tiêu thụ, quảng bá hình ảnh sản phẩm trà ra thị trường quốc gia và quốc tế, từ đó tạo động lực cho người trồng chè, hợp tác xã, doanh nghiệp tích cực đầu tư phát triển sản xuất theo hướng bền vững, chất lượng cao.
Một tiết mục pha trà, dâng trà ở HTX Trà và Du lịch cộng đồng Tiến Yên (Thái Nguyên). Ảnh: Việt Hải.
Tỉnh Thái Nguyên đã ban hành các chính sách khuyến khích sản xuất chè sạch, hữu cơ và sinh thái. Theo Quy hoạch phát triển ngành chè giai đoạn 2025 - 2030, Thái Nguyên đặt mục tiêu đến năm 2030 có khoảng 70% diện tích chè được sản xuất theo tiêu chuẩn VietGAP, hữu cơ và có mã số vùng trồng để đảm bảo truy xuất nguồn gốc và an toàn thực phẩm. Điều này đồng nghĩa với diện tích chè sạch, hữu cơ sẽ mở rộng đáng kể so với hiện nay - một bước tiến lớn từ sản xuất trà truyền thống sang sản xuất có kiểm soát chất lượng và bảo vệ môi trường. Sự chuyển đổi này cho thấy văn hóa trà không đứng ngoài sản xuất mà đang trở thành động lực thúc đẩy nông nghiệp xanh, sạch và thông minh tại Thái Nguyên.
Cùng với nông dân, nhiều hợp tác xã chè như Hảo Đạt, La Bằng, Trại Cài, Tiến Yên, Khe Cốc… đã đi đầu trong việc chuyển sang sản xuất chè sạch, nhiều sản phẩm đạt chuẩn OCOP 3 - 5 sao, làm tiền đề bước mạnh ra thị trường quốc tế. Sản phẩm chè hữu cơ và sạch của các hợp tác xã có thể được định giá cao hơn từ 30% đến 40% so với sản phẩm truyền thống, mang lại thu nhập tốt hơn cho người trồng chè và góp phần nâng cao đời sống kinh tế nông thôn.
Không gian văn hóa trà Tân Cương 1. Ảnh: Việt Hải.
Một thành quả nổi bật của sự kết hợp giữa văn hóa và sản xuất chè là du lịch sinh thái vùng chè. Vùng đồi chè không chỉ là nơi sản xuất mà còn là điểm đến trải nghiệm, nơi du khách hòa mình vào thiên nhiên, hái chè, học cách chế biến chè, tham gia các lễ hội văn hóa trà. Mô hình này giúp tăng thêm giá trị kinh tế cho người trồng chè, kết nối sản xuất với dịch vụ, du lịch và trải nghiệm văn hóa - một mô hình phát triển nông thôn đa chiều
Sự kết hợp giữa hoạt động văn hóa trà và chiến lược phát triển sản xuất chè sạch, hữu cơ, sinh thái đã tạo đột phá trong lĩnh vực trồng trọt của Thái Nguyên. Việc xác định cây chè không chỉ là cây chủ lực trong nông nghiệp mà còn là lõi văn hóa, sản phẩm đặc trưng quốc gia đã giúp Thái Nguyên tiến những bước vững chắc trên con đường đưa trà Thái Nguyên trở thành “đặc sản quốc hồn quốc túy”, góp phần nâng tầm thương hiệu Việt trên bản đồ trà thế giới.
Không gian văn hóa trà Tân Cương 2. Ảnh: Việt Hải.
Có mặt trong chuyến đi thực tế của đoàn văn nghệ sĩ lên vùng chè Thái Nguyên phục vụ cuộc thi viết “Thái Nguyên đệ nhất danh trà”, ông Tạ Văn Lộc - Giám đốc Trung tâm thông tin tỉnh Thái Nguyên chia sẻ: “Cây chè không chỉ lớn lên từ đất đai, khí hậu và bàn tay người trồng mà còn được nuôi dưỡng bởi không gian văn hóa. Từ lễ hội, không gian thưởng trà đến những câu chuyện về nghề, về người, văn hóa trà đã trở thành sợi chỉ bền kết nối quá khứ với hiện tại, truyền thống với đổi mới”.
Đặc biệt, khi văn hóa được đặt đúng vị trí như một giá trị dẫn đường thì phát triển không còn là cuộc chạy đua đơn thuần về sản lượng. Người trồng chè biết trân quý từng búp non, hợp tác xã hiểu rằng làm chè sạch là làm văn hóa, còn địa phương nhận ra rằng bảo vệ môi trường sinh thái chính là bảo vệ tương lai của thương hiệu. Những vườn chè xanh hơn, những xưởng chế biến hiện đại hơn và những sản phẩm trà mang bản sắc rõ nét hơn là minh chứng sinh động cho con đường ấy.
Nhiều hợp tác xã chè đã đầu tư máy móc hiện đại trong quy trình sản xuất. Ảnh: Việt Hải.
Từ điểm tựa văn hóa, cây chè và sản phẩm trà Thái Nguyên đang bước ra thị trường lớn với một tâm thế tự tin với chân lý giản dị mà bền vững: khi văn hóa dẫn lối, phát triển sẽ đi đúng đường và đi xa, đi bền.
Toàn tỉnh hiện có trên 22.000ha chè. Diện tích chè sản xuất theo tiêu chuẩn VietGAP, hữu cơ và an toàn sinh thái đạt hơn 6.500ha, tăng gần 30% so với năm 2020. Trên 70% hợp tác xã chè đã đầu tư máy móc chế biến hiện đại, áp dụng công nghệ sao sấy, lên men kiểm soát nhiệt độ, truy xuất nguồn gốc bằng QR code. Giá trị sản xuất chè bình quân đạt từ 200 - 500 triệu đồng/ha/năm, nhiều vùng chè đặc sản đạt trên 1 tỷ đồng/ha/năm.


























