Tại cuộc họp đánh giá Đề án Tổng thể bảo tồn voi giai đoạn 2015-2025 chiều 26/12, ông Đoàn Hoài Nam, Phó Cục trưởng Cục Lâm nghiệp và Kiểm lâm cho biết, thập niên 1990 đánh dấu giai đoạn suy giảm nghiêm trọng của voi Việt Nam, khi các quần thể từng phân bố rộng ở Việt Nam, Lào và Myanmar liên tục bị thu hẹp.
Trước thực trạng đó, năm 2013, lần đầu tiên Nhà nước dành ngân sách cho một đề án bảo tồn voi ở quy mô quốc gia, chuyển cách làm từ phân tán sang tiếp cận có chiến lược, có nguồn lực và có đánh giá tổng thể.
Ông Đoàn Hoài Nam: 'Phục hồi quần thể voi là thước đo cho hiệu quả bảo vệ rừng'. Ảnh: Bảo Thắng.
Voi được coi là loài chỉ thị sinh thái của rừng. Sự tồn tại và sinh trưởng của đàn voi phản ánh trực tiếp chất lượng sinh cảnh và mức độ toàn vẹn của hệ sinh thái. Bởi vậy, việc phục hồi được quần thể voi không chỉ là câu chuyện của một loài, mà là thước đo cho hiệu quả bảo vệ rừng và đa dạng sinh học.
Đồng Nai là địa phương minh họa rõ nhất cho sự thay đổi cách tiếp cận này. Sau sáp nhập địa giới, đến cuối năm 2024, tỉnh có khoảng 370.000 ha rừng và đất quy hoạch lâm nghiệp, tỷ lệ che phủ đạt hơn 25%. Trên địa bàn tập trung nhiều khu bảo tồn lớn, trong đó có Vườn quốc gia Cát Tiên và Khu bảo tồn thiên nhiên văn hóa Đồng Nai, nơi còn sót lại quần thể voi hoang dã hiếm hoi của vùng Đông Nam Bộ.
Theo ông Cồ Tấn Huy, Phó Chi cục trưởng Chi cục Kiểm lâm Đồng Nai, giai đoạn 1990-2009 là đáy suy thoái của đàn voi địa phương. Từ mức 15-20 cá thể đầu thập niên 1990, số lượng giảm xuống còn khoảng 10 con vào năm 2009. Xung đột người - voi diễn ra thường xuyên, gây thiệt hại cho sản xuất nông nghiệp và khiến voi bị thương, thậm chí chết do trả đũa.
Bước ngoặt đến từ dự án khẩn cấp bảo tồn voi được triển khai từ năm 2013. Trên cơ sở điều tra sinh cảnh và giám sát quần thể bằng bẫy ảnh, dấu vết và phỏng vấn cộng đồng, Đồng Nai lựa chọn một giải pháp trọng tâm: xây dựng hàng rào điện để tách không gian sinh sống của voi với khu dân cư và đất sản xuất.
Đến nay, toàn tuyến hàng rào điện tại Đồng Nai đã dài khoảng 72 km. Giai đoạn 2014-2020 xây dựng 46 km, giai đoạn 2021-2025 bổ sung thêm 25 km, đi kèm đường tuần tra, chòi canh, chảo nước và điểm bổ sung muối khoáng trong rừng. Giải pháp này không nhằm “nhốt” voi, mà định hướng lại đường di chuyển, giữ đàn voi trong sinh cảnh phù hợp và hạn chế việc xâm nhập vào ruộng rẫy.
Hiệu quả thể hiện rõ qua từng năm. Nếu giai đoạn trước dự án chỉ ghi nhận khoảng 10-16 cá thể, thì đến năm 2023, quần thể voi Đồng Nai đã tăng lên 25-27 con. Trong giai đoạn 2023-2025, tiếp tục ghi nhận 4-5 voi non được sinh ra, cho thấy đàn voi không chỉ tồn tại mà đang sinh trưởng ổn định.
Phó Chi cục trưởng Chi cục Kiểm lâm Đồng Nai giới thiệu những cách làm của địa phương để bảo tồn voi. Ảnh: Bảo Thắng.
Cùng với hàng rào điện, tỉnh đã xác định vùng sinh cảnh voi khoảng 34.000 ha, trong đó gần 16.000 ha là tre nứa và rừng hỗn giao - nguồn thức ăn quan trọng của loài. 6 chảo nước và các điểm bổ sung khoáng đã được hoàn thiện, thu hút voi và nhiều loài thú lớn quay lại sử dụng sinh cảnh tự nhiên.
Tác động xã hội cũng là yếu tố then chốt. Hệ thống hàng rào điện đã bảo vệ khoảng 5.000 ha cây nông nghiệp, giúp người dân yên tâm sản xuất. Các vụ voi phá hoại nghiêm trọng và tình trạng voi chết do xung đột đến nay hầu như không còn. Nhận thức cộng đồng thay đổi rõ rệt, từ coi voi là mối đe dọa sang chấp nhận chung sống và cùng bảo vệ.
Từ năm 2019 đến 2025, Đồng Nai còn triển khai chương trình thí điểm bảo tồn voi với sự đồng hành của tổ chức Humane World for Animals. Chương trình tập trung vào giám sát quần thể, đánh giá sinh cảnh và xây dựng mô hình quản lý xung đột người - voi theo hướng hài hòa, coi sinh kế cộng đồng là một phần của bảo tồn.
Phó Cục trưởng Đoàn Hoài Nam đánh giá, bài học lớn nhất rút ra là bảo tồn voi không thể chỉ dừng ở việc “giữ số lượng cá thể”. Giải pháp bền vững phải đặt con người ở trung tâm, giảm xung đột bằng công cụ kỹ thuật cụ thể, song song với hỗ trợ sinh kế và nâng cao nhận thức.
Trên nền tảng kết quả này, Đồng Nai, cũng như một số địa phương khác có đàn voi lớn như Đắk Lắk, Hà Tĩnh, Nghệ An, Đà Nẵng... đã ban hành nhiều kế hoạch hành động, với tầm nhìn đến năm 2050, nhằm tiếp tục duy trì vận hành, củng cố các tổ phản ứng nhanh, tiếp tục cải thiện sinh cảnh và xây dựng cơ chế hỗ trợ thiệt hại cho người dân.
Trong quá trình bảo tồn voi, Việt Nam có sự tham gia, đồng hành của các tổ chức quốc tế và phi chính phủ như WWF, HWA, AAF... thông qua hỗ trợ kỹ thuật, nghiên cứu và truyền thông nâng cao nhận thức. Sự phối hợp này góp phần bổ sung kinh nghiệm, phương pháp và nguồn lực kỹ thuật cho công tác giám sát, giảm xung đột người - voi và bảo vệ sinh cảnh.





























