Tuần tra hiệu quả, rừng được bảo vệ
Đã thành thông lệ, trước mỗi chuyến tuần tra, anh A Hó Ben, Trưởng Ban Bảo vệ rừng cộng đồng (BVRCĐ) tổ dân phố Dung, xã Thạnh Mỹ, TP Đà Nẵng đều mở ứng dụng SMART trên điện thoại thông minh để xác định tuyến đường và khu vực cần kiểm tra. Ban BVRCĐ tổ dân phố Dung được thành lập từ năm 2018, hiện có 67 thành viên, nhận khoán quản lý và bảo vệ hơn 713 ha rừng.
Theo anh A Hó Ben, trước đây mọi thông tin của các chuyến tuần tra đều được ghi chép thủ công, dữ liệu rời rạc, thiếu đồng nhất, việc tổng hợp, lưu trữ và báo cáo rất mất thời gian, đặc biệt khó xác định các “điểm nóng” vi phạm do thiếu minh chứng hiện trường.
Từ khi ứng dụng SMART được triển khai, toàn bộ dữ liệu tuần tra như tuyến đường đi, khoảnh rừng, tiểu khu, hình ảnh hiện trường đều được cập nhật trực tiếp lên hệ thống, giúp quản lý tập trung, khoa học và minh bạch hơn.
Bảo vệ rừng từ ứng dụng SMART giúp quản lý rừng được tập trung, khoa học và minh bạch hơn. Ảnh: L.A.
Nhờ được tập huấn bài bản từ Ban Quản lý rừng phòng hộ Nam Giang, 100% thành viên tổ BVRCĐ đã sử dụng thành thạo ứng dụng. Trong mỗi chuyến tuần tra, khi phát hiện bẫy thú, dấu vết động vật, người lạ xâm nhập lâm phận hoặc nguy cơ xâm hại, cháy rừng, các thành viên lập tức ghi nhận, chụp ảnh và cập nhật lên SMART để làm cơ sở báo cáo và phối hợp xử lý.
100% thành viên tổ BVRCĐ tổ dân phố Dung, xã Thạnh Mỹ đã sử dụng thành thạo ứng dụng. Ảnh: L.A.
Nhờ cách làm này, công tác tuần tra trở nên chặt chẽ và hiệu quả hơn. Bình quân mỗi năm, tổ thực hiện khoảng 50 tuyến tuần tra, số vụ vi phạm giảm mạnh qua các năm và gần đây không ghi nhận vụ việc nào. Hơn 713 ha rừng giao khoán cho cộng đồng được bảo vệ nghiêm ngặt, không xảy ra cháy rừng hay mất rừng. Dữ liệu thu thập từ ứng dụng còn phục vụ cho công tác báo cáo, chi trả dịch vụ môi trường rừng và làm căn cứ xây dựng kế hoạch quản lý, bảo vệ rừng của cộng đồng trong những năm tiếp theo.
“SMART không chỉ là công cụ hỗ trợ quản lý rừng, mà còn là cầu nối giúp cộng đồng địa phương trở thành những người giám hộ rừng chuyên nghiệp”, anh A Hó Ben chia sẻ.
Từng bước hoàn thiện nền tảng số ngành lâm nghiệp
Theo Chi cục Kiểm lâm Đà Nẵng, sau sáp nhập, địa phương đang quản lý diện tích rừng và đất lâm nghiệp rất lớn, với tổng quy mô trên 744 nghìn ha; trong đó diện tích có rừng hơn 688 nghìn ha, gồm trên 504 nghìn ha rừng tự nhiên và hơn 184 nghìn ha rừng trồng.
Ghi nhận sự tồn tại của nhiều loài động vật hoang dã trong các khu rừng của Quảng Nam (cũ) nhờ thiết bị bẫy ảnh. Ảnh chụp màn hình.
Hệ thống quản lý, giám sát tài nguyên rừng tỉnh Quảng Nam (cũ) đã được kế thừa, nâng cấp và phát triển để triển khai đồng bộ trên địa bàn thành phố Đà Nẵng. Hệ thống cho phép quản lý tập trung dữ liệu giám sát, tuần tra; tích hợp cảnh báo cháy rừng, mất rừng; đồng thời kết nối, chia sẻ thông tin giữa các đơn vị quản lý nhà nước, địa phương và chủ rừng. Nhờ vậy, công tác chỉ đạo, điều hành và xử lý các tình huống liên quan đến bảo vệ rừng được thực hiện nhanh chóng, minh bạch và hiệu quả hơn.
Một trong những kết quả nổi bật là việc triển khai và tích hợp dữ liệu tuần tra SMART vào hệ thống quản lý. Các tuyến tuần tra được đồng bộ hóa, lưu trữ đầy đủ, trở thành minh chứng rõ ràng cho hoạt động kiểm tra, giám sát tại hiện trường.
Cùng với đó, cơ sở dữ liệu chi trả dịch vụ môi trường rừng và nhiều dữ liệu chuyên ngành lâm nghiệp khác cũng được tích hợp, hình thành một hệ thống dữ liệu thống nhất, phục vụ hiệu quả công tác quản lý. Đây cũng là nền tảng để vận hành Hệ thống quản lý, giám sát tài nguyên rừng của địa phương tại địa chỉ https://quanlyrung.quangnam.gov.vn.
Lực lượng kiểm lâm Đà Nẵng sử dụng thiết bị bay không người lái để kiểm tra hiện trạng rừng. Ảnh: L.A.
Đặc biệt, Chi cục Kiểm lâm đã xây dựng và đưa vào sử dụng bộ công cụ biên tập bản đồ trên thiết bị di động, dựa trên nền tảng FRMS 4.0 và QField. Công cụ này cho phép cán bộ khoanh vẽ, tính diện tích và ghi nhận biến động rừng ngay tại hiện trường, thay thế hoàn toàn các thao tác phức tạp trước đây phải thực hiện trên máy tính với các phần mềm chuyên dụng. Bộ công cụ được chuẩn hóa theo Thông tư số 16/2025 và tiêu chuẩn kỹ thuật TCVN 11565:2016, bảo đảm tính pháp lý và độ chính xác của dữ liệu đầu ra.
“Việc áp dụng công cụ mới đã mang lại hiệu quả rõ rệt: thời gian lập hồ sơ biến động rừng giảm từ 25-40 phút xuống chỉ còn 5-10 phút mỗi hồ sơ, giúp tiết kiệm hơn 6.000 giờ công mỗi năm. Dữ liệu được nhập trực tiếp tại hiện trường góp phần nâng cao độ chính xác, giảm sai sót, giảm phụ thuộc vào cán bộ kỹ thuật, đồng thời tăng tính chủ động cho lực lượng kiểm lâm địa bàn và mở rộng khả năng tham gia của cộng đồng trong công tác bảo vệ rừng”, ông Hà Phước Phú, Phó Chi cục trưởng Chi cục Kiểm lâm Đà Nẵng cho biết.





























