Cây chè đã gắn bó, phát triển tại Hà Tĩnh hơn 50 năm. Hiện chè là cây chủ lực trong phát triển kinh tế nông nghiệp của Hà Tĩnh, là sinh kế chính, chiếm 30 - 40% thu nhập của nhiều hộ nông dân. Tuy nhiên, cùng với việc mở rộng diện tích và thâm canh tăng năng suất, hệ sinh thái các vùng trồng chè có dấu hiệu mất cân bằng, sâu bệnh ngày càng phát sinh phức tạp.
Nhiều hộ dân phải sử dụng thuốc bảo vệ thực vật nhiều lần trong năm, tiềm ẩn nguy cơ tồn dư hóa chất trên sản phẩm, ảnh hưởng đến sức khỏe người tiêu dùng và môi trường. Thực tế đó đòi hỏi ngành nông nghiệp địa phương phải có giải pháp căn cơ, vừa kiểm soát dịch hại, vừa bảo đảm sản xuất an toàn, bền vững.
Chè là cây chủ lực trong phát triển kinh tế nông nghiệp của tỉnh Hà Tĩnh. Ảnh: Ánh Nguyệt.
Bước đi xây dựng vùng nguyên liệu chè VietGAP
Nhằm hướng đến sản xuất chè bền vững, nâng cao chất lượng sản phẩm, năm 2025, Trung tâm Khuyến nông Hà Tĩnh triển khai mô hình “Quản lý dịch hại tổng hợp (IPM) trên cây chè gắn với cấp mã vùng trồng” với quy mô 20ha, 48 hộ dân tham gia tại xã Sơn Tây (tỉnh Hà Tĩnh). Đây là bước đi quan trọng trong việc xây dựng vùng nguyên liệu chè đạt tiêu chuẩn VietGAP, tạo tiền đề mở rộng thị trường tiêu thụ và xuất khẩu.
Mục tiêu của mô hình là áp dụng đồng bộ các biện pháp kỹ thuật IPM giúp cây chè sinh trưởng tốt, tăng khả năng chống chịu sâu bệnh, giảm chi phí và hạn chế ô nhiễm môi trường. Nông dân được tập huấn và hướng dẫn sử dụng thuốc bảo vệ thực vật có nguồn gốc sinh học như Kyodo 25SC, New Kasuran 16.6WP, kết hợp bón phân hữu cơ, duy trì thiên địch và vệ sinh đồng ruộng thường xuyên.
Mô hình áp dụng IPM trên cây chè giúp lượng thuốc hóa học giảm 30 - 40%, lượng phân bón vô cơ giảm 10 - 25%. Ảnh: Ánh Nguyệt.
Trong mô hình, lượng thuốc hóa học giảm 30 - 40%, lượng phân bón vô cơ giảm 10 - 25%, năng suất và lợi nhuận dự kiến tăng 15 - 20% so với sản xuất thông thường. Ngoài ra, mô hình còn tập trung huấn luyện kỹ năng nhận biết, dự tính dự báo sâu bệnh, phương pháp điều tra thiên địch và phân tích hệ sinh thái đồng ruộng. Sau khi hoàn thành, 48 hộ dân tham gia sẽ trở thành hạt nhân tuyên truyền, nhân rộng phương pháp IPM tại địa phương.
Gia đình chị Đào Thị Hoa ở xã Sơn Tây hiện canh tác hơn 1ha chè. Xác định đây là cây trồng chủ lực trong phát triển kinh tế, chị Hoa mạnh dạn đầu tư giống mới, thâm canh theo quy trình VietGAP và hạn chế thấp nhất việc dùng thuốc bảo vệ thực vật. Gia đình chị tận dụng nguồn phân chuồng ủ hoai từ chăn nuôi trâu, bò, hươu để bón cho chè. Nhờ chăm sóc đúng kỹ thuật, vườn chè phát triển tốt, năng suất đạt 15 - 16 tấn/ha, giá bán bình quân 7.000 đồng/kg, cho thu nhập hàng trăm triệu đồng mỗi năm.
Tham gia mô hình, bà con nắm vững kỹ thuật, kiểm soát tốt quy trình canh tác, hạn chế rủi ro do sâu bệnh và hóa chất. Ảnh: Ánh Nguyệt.
Cùng tham gia mô hình, chị Trần Thị Huệ chia sẻ: “Sản xuất theo hướng an toàn giúp bà con nắm vững kỹ thuật, kiểm soát tốt quy trình canh tác, hạn chế rủi ro do sâu bệnh và hóa chất. Chè làm ra có chất lượng cao, được người tiêu dùng tin tưởng, dễ tiêu thụ với giá tốt hơn. Điều quan trọng hơn là bảo vệ được sức khỏe người sản xuất và môi trường sinh thái".
Bảo vệ môi trường, hiệu quả kinh tế tăng 15 - 20%,
Tổ hợp tác sản xuất chè VietGAP Trung Lưu (xã Sơn Tây, Hà Tĩnh) hiện có 48 thành viên, mỗi năm cung ứng cho Xí nghiệp chè Tây Sơn hơn 500 tấn chè búp tươi. Việc áp dụng quy trình VietGAP giúp người dân thay đổi căn bản tư duy sản xuất, bà con đã có ý thức ghi chép nhật ký đồng ruộng, sử dụng thuốc đúng liều lượng, tuân thủ thời gian cách ly. Nhờ đó cây chè sinh trưởng khỏe, ít sâu bệnh, chi phí sản xuất giảm, trong khi giá trị sản phẩm tăng lên rõ rệt.
Anh Phan Quốc Việt, Tổ trưởng Tổ hợp tác cho biết: “Trồng chè theo VietGAP giúp các hộ tăng hiệu quả kinh tế 15 - 20% so với sản xuất đại trà, giảm 2 - 3 lần phun thuốc bảo vệ thực vật, góp phần bảo vệ môi trường và sức khỏe cộng đồng".
Trung tâm Khuyến nông Hà Tĩnh phối hợp với Công ty cổ phần Chứng nhận và Kiểm nghiệm FAO kiểm tra, đánh giá chứng nhận VietGAP. Ảnh: Ánh Nguyệt.
Cùng với việc hoàn thiện quy trình kỹ thuật từ trồng, chăm sóc đến thu hái, bảo quản và chế biến, Xí nghiệp chè Tây Sơn (Công ty cổ phần chè Hà Tĩnh) thường xuyên cử cán bộ kỹ thuật xuống kiểm tra, hướng dẫn thời điểm hái búp nhằm đảm bảo chất lượng tốt nhất.
Ông Nguyễn Hồng Sánh, Giám đốc Xí nghiệp chè Tây Sơn cho biết: “Xí nghiệp hiện liên kết bao tiêu sản phẩm cho hơn 1.000 hộ dân tại các xã Sơn Kim 1, Sơn Kim 2, Sơn Tây, Sơn Hồng với 326ha chè, sản lượng gần 5.000 tấn chè búp tươi/năm. Đơn vị đã đầu tư dây chuyền chế biến hiện đại, công suất 50 tấn/ngày để đảm bảo chất lượng và tăng khả năng cạnh tranh trên thị trường".
Tham gia mô hình quản lý dịch hại tổng hợp trên cây chè gắn với cấp mã vùng trồng, Tổ hợp tác sản xuất chè VietGAP Trung Lưu được Trung tâm Khuyến nông Hà Tĩnh cử cán bộ tập huấn, hướng dẫn các hộ dân thực hành quy trình sản xuất chè theo tiêu chuẩn VietGAP, ghi chép nhật ký sản xuất, đánh giá nội bộ, khắc phục sữa lỗi, đồng thời hợp đồng với Công ty cổ phần Chứng nhận và Kiểm nghiệm FAO lấy mẫu đất, nước, sản phẩm phân tích, đánh giá, cấp chứng nhận. Kết quả, 20ha chè đã được cấp chứng nhận đạt tiêu chuẩn VietGAP".
Khi được cấp mã vùng trồng và sản xuất theo tiêu chuẩn VietGAP, sản phẩm chè Hà Tĩnh sẽ có cơ hội vươn xa hơn. Ảnh: Ánh Nguyệt.
Ông Hà Trung Kiên, chuyên gia đánh giá của Công ty cổ phần Chứng nhận và Kiểm nghiệm FAO đánh giá: “Các hộ dân tại Sơn Tây đã nắm vững quy trình sản xuất theo tiêu chuẩn VietGAP, cây chè sinh trưởng tốt, năng suất và chất lượng cao. Đây là vùng sản xuất an toàn, đủ điều kiện cấp chứng nhận VietGAP".
Theo ông Nguyễn Hữu Ngọc, Giám đốc Trung tâm Khuyến nông Hà Tĩnh: Mô hình quản lý dịch hại tổng hợp (IPM) trên cây chè gắn với cấp mã vùng trồng không chỉ giúp nông dân giảm chi phí, tăng thu nhập mà còn thay đổi tư duy sản xuất, hướng tới nền nông nghiệp xanh, an toàn.
Khi được cấp mã vùng trồng và sản xuất theo quy trình chuẩn, sản phẩm chè Hà Tĩnh sẽ có cơ hội vươn xa hơn, góp phần nâng cao thương hiệu nông sản địa phương. Hiện Trung tâm Khuyến nông Hà Tĩnh đang phối hợp với Chi cục Trồng trọt và Chăn nuôi tỉnh hoàn thiện hồ sơ để cấp mã số vùng trồng cho 20ha chè tại Sơn Tây nhằm tạo cơ sở truy xuất nguồn gốc, mở rộng thị trường tiêu thụ.





























