Cụ thể là: Công văn số 598/SNN-CNTS&TY ngày 8/3/2024 về việc tăng cường quản lý, phát triển giống thủy sản, thức ăn thuỷ sản, sản phẩm xử lý môi trường nuôi trồng thuỷ sản; Công văn số 382/SNN-CNTS&TY ngày 13/02/2025 về việc tăng cường công tác quản lý giống thủy sản, thức ăn thủy sản, sản phẩm xử lý môi trường nuôi trồng thủy sản và phòng, chống dịch bệnh động vật thủy sản trên địa bàn thành phố Hà Nội năm 2025.
Ngoài ra, thành phố còn ban hành kế hoạch phát triển giống hàng năm, giao chỉ tiêu sản xuất, quản lý chất lượng giống, triển khai vùng nuôi tập trung; Tăng cường kiểm tra, giám sát, kiểm soát các cơ sở sản xuất, ương dưỡng, kinh doanh giống; quản lý giống nhập từ các tỉnh/thành khác; Hướng dẫn kỹ thuật, tổ chức tập huấn, chuyển giao tiến bộ kỹ thuật về chọn giống, phòng bệnh, bảo quản và vận chuyển giống; Ứng phó, chỉ đạo phòng, chống dịch bệnh trên cá giống, kiểm soát dịch bệnh lây lan giữa các cơ sở nuôi.
Các đoàn kiểm tra, giám sát, kiểm soát các cơ sở sản xuất, ương dưỡng, kinh doanh giống.
Thành phố Hà Nội đã áp dụng quy trình kỹ thuật sản xuất giống an toàn, có kiểm dịch, gắn với tiêu chuẩn VietGAP; có cơ chế bảo tồn giống bản địa bằng cách khuyến khích nghiên cứu, nhân giống các loài thủy sản bản địa, đặc sản có giá trị kinh tế để đưa vào nuôi thương phẩm.
Chi cục Chăn nuôi, Thủy sản và Thú y đã chỉ đạo các cơ sở ương dưỡng đẩy mạnh ứng dụng kỹ thuật quản lý chất lượng nước, thức ăn phù hợp với từng giai đoạn phát triển; sử dụng chế phẩm sinh học, hạn chế hóa chất kháng sinh.
Đồng thời tăng cường quản lý dịch bệnh, như phòng bệnh tổng hợp, hướng dẫn hộ ương dưỡng cách phòng bệnh cho cá giống, tránh lây lan ra diện rộng. Tập huấn và chuyển giao các lớp kỹ thuật ương dưỡng giống được tổ chức hằng năm cho nông dân và các hợp tác xã.
Với các cơ sở sản xuất giống thủy sản nhân tạo, Chi cục Chăn nuôi, Thủy sản và Thú y yêu cầu các cơ sở phải đăng ký cấp giấy chứng nhận đủ điều kiện sản xuất, ương dưỡng theo quy định của Luật Thủy sản 2017; kiểm tra điều kiện về cơ sở vật chất (ao, bể nuôi vỗ cá bố mẹ, hệ thống cấp thoát nước, trang thiết bị sản xuất giống).
Các cơ sở ương dưỡng cần tăng cường quản lý dịch bệnh, phòng bệnh cho cá giống.
Việc kiểm định chất lượng giống thực hiện lấy mẫu giống để kiểm tra sức khỏe, tỷ lệ sống, loại bỏ giống dị tật, giống mang mầm bệnh; giống trước khi xuất bán phải được cấp giấy kiểm dịch.
Việc quản lý cá bố mẹ, đàn giống gốc thực hiện kiểm tra nguồn gốc cá bố mẹ, khuyến khích sử dụng đàn cá bố mẹ đã qua chọn lọc, sạch bệnh; bảo tồn, phục tráng giống bản địa (cá trắm đen, cá lăng, cá rô đồng…).
Đồng thời theo dõi tình trạng dịch bệnh ở cá bố mẹ, cơ sở sản xuất; thực hiện tiêu độc, khử trùng định kỳ.
Với việc quản lý giống nhập từ ngoài địa bàn Hà Nội, Chi cục yêu cầu giống nhập từ các tỉnh phải có giấy chứng nhận kiểm dịch, được kiểm tra tại các trạm kiểm dịch động vật.
Chỉ cho phép lưu thông giống đạt chuẩn, loại bỏ các lô giống nhiễm bệnh hoặc không rõ nguồn gốc. Tăng cường phối hợp giữa Hà Nội và các tỉnh, thành phố trong việc quản lý đàn cá bố mẹ, truy xuất nguồn gốc giống.
Cá rô phi là mặt hàng có nhu cầu cao để nuôi thương phẩm.
Tổ chức kiểm tra đột xuất và định kỳ đối với các cơ sở sản xuất, ương dưỡng. Xử phạt các cơ sở không đủ điều kiện, kinh doanh giống không kiểm dịch, giống kém chất lượng. Xây dựng cơ sở dữ liệu quản lý giống thủy sản trên địa bàn Hà Nội; áp dụng mã QR để truy xuất nguồn gốc giống.
Về nhu cầu ương dưỡng giống, cá rô phi đơn tính là đối tượng có nhu cầu cao để nuôi thương phẩm phục vụ trong nước, xuất khẩu và là đối tượng được nuôi ghép với các đối tượng thủy sản khác cho hiệu quả kinh tế cao.
Cá lăng, cá nheo, các đối tượng đặc sản được ương dưỡng tại một số cơ sở nhưng khối lượng nhỏ hơn; thường cung ứng theo đơn đặt hàng và mô hình nuôi chuyên dụng.
Về hoạt động ương dưỡng giống thủy sản, Hà Nội duy trì và phát triển hệ thống ao ương dưỡng tại các huyện (cũ) như Ứng Hòa, Mỹ Đức, Ba Vì, Thanh Trì, Chương Mỹ… thu hút nhiều hộ và hợp tác xã tham gia ương dưỡng cá giống từ bột đến hương, từ hương lên giống thả nuôi.




























