Hệ thống chính sách đồng bộ
Ngành nông nghiệp đang đứng trước yêu cầu cắt giảm mạnh phát thải khí nhà kính khi lĩnh vực này chiếm gần 1/3 tổng phát thải quốc gia, trong đó riêng khí metan từ canh tác lúa và chăn nuôi chiếm tỷ trọng lớn. Từ sau cam kết Net Zero tại COP26, hệ thống văn bản điều hành đã được xây dựng tương đối đầy đủ, đặt nền cho quá trình chuyển đổi sang mô hình sản xuất phát thải thấp trong giai đoạn 2025-2030.
Người dân tại mô hình trồng lúa giảm phát thải tại Hải Dương (cũ). Ảnh: Sở NN-MT Hải Phòng.
Bộ khung đầu tiên là Chiến lược quốc gia về biến đổi khí hậu đến năm 2050. Văn bản này xác định nông, lâm nghiệp là 1 trong 5 lĩnh vực trọng tâm cần giảm phát thải, đồng thời yêu cầu các bộ, ngành xây dựng lộ trình chuyển đổi phù hợp với từng nhóm phát thải lớn như lúa gạo, chăn nuôi, thủy sản, phân bón và quản lý đất. Chiến lược cũng đặt mục tiêu nâng cao khả năng hấp thụ các-bon của hệ sinh thái rừng, coi đây là một trụ cột để bù đắp phát thải của những lĩnh vực khó giảm.
Nền tảng thứ hai là Đóng góp quốc gia tự quyết định (NDC) cập nhật 2022. NDC nhấn mạnh nhiệm vụ giảm 30% khí mê-tan, loại khí có tiềm năng gây nóng gấp hơn 28 lần CO₂ - từ 2 nguồn chính là ruộng lúa và chăn nuôi gia súc. Các biện pháp thực hiện gồm tưới ngập khô xen kẽ (AWD), xử lý chất thải chăn nuôi, tăng hữu cơ, giảm phân hóa học và kiểm soát đốt phụ phẩm.
Trên bình diện không gian phát triển, Quy hoạch tổng thể quốc gia giai đoạn 2021-2030, tầm nhìn 2050 đưa vào nhóm mục tiêu thích ứng khí hậu và giảm phát thải. Quy hoạch phân định các vùng sản xuất nông nghiệp chủ lực, ưu tiên ĐBSCL cho lúa chất lượng cao, phát thải thấp; Tây Nguyên cho cây công nghiệp theo chuẩn bền vững; miền Trung - Tây Bắc cho lâm nghiệp, lưu trữ các-bon và kinh tế rừng. Đồng thời đặt ra yêu cầu hiện đại hóa hệ thống thủy lợi nhằm giảm thất thoát, giảm dùng năng lượng và hạn chế phát thải gián tiếp.
Nhiều lĩnh vực góp sức giảm phát thải
Các kế hoạch chuyên ngành cũng được hoàn thiện đồng thời. Đề án 1 triệu ha lúa chất lượng cao phát thải thấp vùng ĐBSCL là chương trình có tác động lớn nhất. Đề án hướng tới mở rộng diện tích lúa theo tiêu chuẩn bền vững, giảm nước tưới, giảm phân vô cơ, kiểm soát đốt rơm rạ và tăng tính liên kết vùng trong vận hành thủy lợi. Việc bắt buộc ghi chép số liệu canh tác giúp hình thành hệ thống đo đạc - báo cáo - thẩm tra (MRV) cho ngành hàng lúa gạo.
Với diện tích hơn 14,8 triệu ha rừng, lâm nghiệp được kỳ vọng là mũi nhọn hấp thụ các-bon tại Việt Nam. Ảnh: Bá Thắng.
Trong chăn nuôi, Chiến lược phát triển chăn nuôi 2021-2030 đưa giảm phát thải vào nhóm giải pháp bắt buộc, yêu cầu địa phương phát triển công nghệ xử lý chất thải bằng biogas, tách rắn - lỏng; điều chỉnh khẩu phần thức ăn nhằm giảm khí metan đường ruột; kiểm soát quy mô nuôi để hạn chế áp lực môi trường. Chiến lược cũng đặt mục tiêu đến 2030, tỷ lệ cơ sở chăn nuôi ứng dụng công nghệ xử lý chất thải phải tăng rõ rệt, tiến tới xây dựng chuỗi chăn nuôi tuần hoàn tại các vùng tập trung.
Với lĩnh vực lâm nghiệp, Chương trình phát triển lâm nghiệp bền vững và REDD+ tiếp tục xác định, thực hiện song song nhiệm vụ bảo vệ rừng tự nhiên và mở rộng diện tích rừng được cấp chứng chỉ. Đây là nguồn hấp thụ các-bon chính, dự kiến đạt 95 triệu tấn CO₂ mỗi năm vào 2030, đóng vai trò cân bằng lượng phát thải còn lại của nông nghiệp. Hoạt động số hóa bản đồ rừng, kiểm soát mất rừng và truy xuất nguồn gỗ cũng được tăng cường, nhằm giúp Việt Nam sớm tham gia thị trường các-bon trong nước và quốc tế.
Đóng góp quốc gia tự quyết định (NDC) đặt mục tiêu giảm tối đa 43,5% lượng phát thải khí nhà kính, tương đương với 403,7 triệu tấn CO2 tương đương, trong đó lĩnh vực nông nghiệp giảm 50,9 triệu tấn Co2 tương đương, lâm nghiệp và sử dụng đất (LULUCF) giảm 46,6 triệu tấn.





























