Cá sặc rằn có tên khoa học là Trichgaster pectorakilis, thuộc họ cá rô (Anabantidae). Cá sặc rằn thích hợp ở những vùng khí hậu nhiệt đới nóng ẩm, lượng mưa hàng năm nhiều. Ở nước ta cá sống thích hợp nhất là vùng ĐBSCL như Cần Thơ, An Giang, Cà Mau...
Cá sặc rằn có thể sống được ở những nơi nước lợ, có hàm lượng chất hữu cơ cao, lượng ô xy hòa tan thấp, pH thấp, chúng có thể sống bình thường ở nhiệt độ thấp từ 10-12 độ C. Cá sặc rằn sinh trưởng tốt ở nhiệt độ 25-30 độ C và pH nước trung tính. Trong điều kiện tự nhiên, mùa cá đẻ là tháng 5-9. Trong điều kiện nhân tạo, cá mẹ được chăm sóc tốt có thể kích thích đẻ từ cuối tháng 2. Thông thường khoảng 1 năm, cá thành thục sinh sản lần đầu. Trung bình mỗi cá mẹ đẻ khoảng 25.000 trứng/đợt.
Để phân biệt cá đực, cá cái người nuôi cần nhận thấy những đặc điểm như: cá đực tia vi chạm dài tới đuôi, trong khi cá cái ngắn hơn. Đường sắc tố chạy dài từ sống lưng xuống bụng của cá đực rõ ràng, trong khi của cá cái không có màu sắc trên thân và vi của con đực có màu sắc sặc sỡ còn vi cá cái nhợt nhạt. Sau một năm nuôi, mỗi con có thể đạt trọng lượng 60-80g. Sau hai năm có thể đạt 150g/con. Khi cá cái đẻ xong, cá đực thường gom trứng vào miệng và nhả trả lại mặt nước dưới dạng tổ bọt.
Trong giai đoạn phôi thai và giai đoạn cá mới nở, cá đực và cá cái thay nhau canh gác để bảo vệ tổ đàn con của chúng. Trong điều kiện 28-30 độ C, trứng thụ tinh và nở sau 24 giờ. Cá con sau khi nở được nuôi bằng noãn hoàng 2-3 ngày. Sau khi tiêu thụ hết noãn hoàng, cá con di chuyển xuống lớp dưới để kiếm mồi. Thông thường cá ương trong ao, sau 30 ngày sẽ đạt chiều dài 2-3cm.
Cá bố mẹ được nuôi trong ao (mặt ao nên thả rau muống). Mật độ thả cá khoảng 25-30 con/m2. Thức ăn cho cá là cám mịn (85%), bột cá (5-8%), thức ăn viên công nghiệp. Lượng thức ăn bằng 2% trọng lượng cá mỗi ngày. Khi thấy mực nước ao cạn cần phải thêm nước sao cho nước luôn ở mức 1,5m để giữ cho môi trường nuôi được trong sạch; tạo điều kiện kích thích phát dục để tháng 4-5 cá bắt đầu đẻ ngay trong ao nuôi. Có thể để nuôi ngay cá con trong ao hay vớt đi nơi khác nuôi cũng được.
Vào đầu mùa mưa khi cá thành thục bắt đầu sinh sản bà con cũng có thể cho đẻ trong điều kiện nhân tạo bằng cách chuẩn bị bể xi măng có kích thước 1 x 2m. Nếu không có bể thì dùng lu hay chậu cũng được. Lấy nước sạch, đổ nước lấy độ sâu khoảng 40cm. Lấy lá môn úp lên mặt nước làm tổ cho cá, chọn con cá bụng to mềm, lỗ hậu môn lòi ra (màu hồng). Còn cá đực thì vuốt nhẹ thấy tinh màu sữa chảy ra. Chích thuốc cho cá đẻ (HCG - Human Chrionic Gonadotropinhormon). Liều dùng cho cá đực bằng 1/3 cho cá cái. Cá sẽ đẻ trứng, chờ cá đẻ xong thì vớt đi nơi khác ấp. Trong thời gian này thay nước mỗi ngày một lần, vớt bỏ những trứng ung. Sau khi cá nở, chuyển chúng xuống ao để ương thành cá giống.
Trước khi thả xuống ao bà con cần chuẩn bị ao để ương cá bột: vét cạn bùn, chỉ để lại một lớp mỏng 0,2-0,3m; lấp hết các hang cua, lỗ mọi. Bón vôi bột với lượng 10 kg/100m2 ao. Nếu trong ao có nhiều mầm bệnh hay pH thấp thì cần bón tăng lượng vôi và phơi đáy ao 2-3 nắng để diệt trừ cá tạp và mầm bệnh. Sau khi phơi nắng cần bón lót cho ao bằng phân chuồng hay phân xanh (30kg/100m2 ao). Sau đó cho nước vào ao ở mức 40-50cm và phơi ao 2-3 ngày rồi cho nước sông vào ao sâu tới 1,5m. Khi thức ăn tự nhiên phát triển và nước chuyển sang màu xanh nõn chuối thì bắt đầu thả cá.
Trong 10 ngày đầu, tùy theo màu nước của ao mà bón phân thích hợp để tạo quần thể thực vật thủy sinh trong ao, nên thả cá vào lúc trời mát. Trước khi thả cá nên ngâm bao chứa cá khoảng 30 phút cho nhiệt độ nước trong bao bằng nhiệt độ nước ao. Khi thả cá nên mở miệng bao cho nước vào từ từ. Mật độ thả trung bình 500-600 con/m2. Sau khi thả cá 2-4 giờ, dùng lòng đỏ trứng gà, vịt đã luộc chín hòa với sữa đậu nành rắc đều trong ao 3-4 lần/ngày (mỗi ngày 2-3 trứng + 6kg đậu nành xay nấu chín cho 1.000m2 ao nuôi. Sau khi thả được một tuần cho ăn bột bắp, cám (2 lần/ngày), rải đều khắp ao, tuần đầu cho ăn 0,5kg/100m2 ao, sau đó tăng dần.