GS.TS Vũ Trọng Hồng
Thay vào đó, ông nhấn mạnh đến những bất cập trong công tác quản lý sử dụng nước phục vụ sản xuất; quy hoạch phát triển nông nghiệp, thủy sản ở vùng đất “chín rồng”.
Mỗi khi gặp điều không may xảy ra, người Việt thường có câu “tiên trách kỷ, hậu trách nhân”, hay nói rộng hơn là trách sự chủ quan của con người trước khi trách các yếu tố bất lợi từ bên ngoài mang tới. Đặt câu thành ngữ trên vào vấn đề hạn, mặn đang lan rộng tại ĐBSCL, ông suy nghĩ điều gì?
Tôi rất thích cách đặt vấn đề như vậy. Rõ ràng, dưới tác động dai dẳng và khủng khiếp của hiện tượng El Nino như hiện nay. Lượng mưa thiếu hụt nghiêm trọng là nguyên nhân chủ yếu dẫn tới hiện tượng hạn hán xảy ra trên diện rộng. Lưu lượng nước trên các hệ thống sông Mêkông xuống thấp nhất trong vài chục năm qua, không đủ lực để đẩy mặn ra biển.
Nhưng, không thể lấy biến đổi khí hậu để biện minh cho những nhận thức sai lầm của con người trong vấn đề quản lý, sử dụng nước. Câu chuyện phát triển thủy sản là ví dụ điển hình. Nơi nào càng phát triển nuôi trồng thủy sản thì càng ít nước ngọt. Trước đây, những tuyến kênh ven biển của Cà Mau, Bạc Liêu chủ yếu là nước ngọt.
Thế nhưng, một thời gian dài người dân sử dụng chính những tuyến kênh nước ngọt ấy để dẫn nước mặn ngược trở vào nội địa phục vụ nuôi trồng thủy sản. Điều này khiến quy hoạch sản xuất nông nghiệp bị phá vỡ. Mặn xâm nhập ngày càng sâu vào đất liền gây xung đột với những vùng trồng trọt (vốn cần nhiều nước ngọt).
Trong khi đó, nền nông nghiệp ở ĐBSCL chưa hẳn đã sản xuất tập trung. Các HTX được thành lập dựa trên tinh thần tự nguyện là chính nên không có quyền điều hành kinh tế hộ. Điều đó dẫn đến thực trạng mạnh ai nấy làm.
Trước đây, Bộ Thủy lợi đã làm tốt việc điều tiết nước, phù hợp với yêu cầu sản xuất theo đúng quy hoạch. Tuyệt đối nghiêm cấm hành vi đưa nước mặn vào nội đồng nếu chưa có sự cho phép của cơ quan nhà nước.
Nhưng từ năm 1995 trở lại đây, cùng với việc khuyến khích người dân phát triển thủy sản, sự quản lý của nhà nước dường như đã bị buông lỏng. Bằng chứng là từ đó đến nay, chưa có một ý kiến nào lên tiếng phản đối mạnh việc phá vỡ quy hoạch sản xuất nông nghiệp ở ĐBSCL của Trung ương. Chủ yếu vẫn là sự tranh chấp giữa người dân với nhau.
Chẳng hạn như ở An Giang, vùng thượng nguồn và hạ nguồn thường xuyên tranh chấp nguồn nước với nhau. Vùng thượng nguồn thường xuyên đóng cống ngăn dòng chảy để giữ nước ngọt canh tác lúa. Mực nước ở hạ nguồn bị xuống thấp đã kéo mặn vào. Vì thế luôn luôn có sự "xung đột". Ở đây, người dân không có lỗi. Cái chính là chúng ta chưa có chiến lược sử dụng nước và chưa lượng hóa được bằng con số.
Vậy muốn quản lý tốt việc sử dụng nước ở ĐBSCL thì cần làm những gì?
Điều cần làm ngay lúc này là phải đánh giá lại toàn bộ hệ thống thủy lợi ở ĐBSCL. Trách nhiệm của các Chi cục Thủy lợi là đánh giá chất lượng nước và mực nước tại các cửa cống lấy nước sụt giảm đến đâu. Thứ hai, điều tra, nghiên cứu xem lượng nước mà nông dân cần đưa vào đồng ruộng là bao nhiêu. Từ đó xây dựng quy trình vận hành các công trình thủy lợi cho cả hệ thống để vừa đáp ứng yêu cầu sản xuất ở cả thượng nguồn và hạ nguồn, vừa đảm bảo lưu lượng nước trên các sông đủ nhiều để đẩy mặn ra biển.
Trước đây, Bộ Thủy lợi đã lập quy hoạch rồi, người ta tính là lấy ở đâu là không bị mặn. Còn những nơi có khả năng xảy ra mặn thì sẽ làm cống để ngăn mặn giữ ngọt. Tuy nhiên, trước tác động của biến đổi khí hậu, hệ thống công trình thủy lợi cũ không thể làm tốt nhiệm vụ ngăn mặn. Cần được củng cố, tu bổ và xây mới các cống ngăn mặn, đê bao nếu cần thiết.
Chẳng hạn như ở Bến Tre, trước đây tình hình xâm nhập mặn chưa gay gắt ở vùng ven biển. Nhưng bây giờ thì khác, họ phải tranh thủ nguồn vốn hỗ trợ của các đối tác phát triển để cứu “bờ xôi ruộng mật” của mình bằng cách nâng cấp các cống ngăn mặn cũ và xây mới một số cống và đê để ngăn mặn.
Có ý kiến cho rằng, một trong những nguyên nhân dẫn tới mực nước sông Mêkông thấp là do nguồn nước bị “ách” lại ở thượng nguồn, liên quan đến các đập thủy điện. Ông nghĩ gì về điều này?
Cách đây hơn 10 năm, người ta cũng đã có dự báo về tác động của El Nino đến sản xuất nông nghiệp của ĐBSCL. Theo đó, cùng với việc phát triển sản xuất, dần dần khu vực này sẽ không đủ nước. Nhưng chúng ta chưa có tài liệu nào dự báo cụ thể về nguồn nước ở thượng nguồn sông Mêkông. Đồng thời, chúng ta cũng không có tài liệu đánh giá về tác động của việc xây dựng các đập thủy điện ở trên đó đối với vùng hạ lưu.
“Để xảy ra hạn, mặn như hôm nay, đầu tiên chúng ta phải trách chính con người chưa biết cách xử với những biến đổi của thiên nhiên. Giống như khi quả núi đang ổn định, nếu anh đào hầm không đúng cách thì đất đá sẽ “xử tệ” ngược trở lại với con người. Vì thế, hãy cân bằng”. |
Nhà nước mình đã từng cử đoàn công tác sang Trung Quốc để thu thập tài liệu về quy trình tích và xả nước trên các đập thủy điện trên thượng nguồn sông Mêkông. Nhưng Trung Quốc không cung cấp. Điều đó cũng dễ hiểu bởi nếu người ta cung cấp số liệu cho chúng ta thì sẽ lộ kế hoạch bán điện. Thứ hai, dung tích của thủy điện nó còn liên quan đến dung tích trữ trong mùa khô và dung tích xả lũ vào mùa mưa. Đó là những thông tin nhạy cảm.
Còn đối với Lào, khi nước bạn xây đập thủy điện Nam Hông với công suất lớn trên sông Mêkông, nước mình cũng lên tiếng phản đối. Nhưng, chúng ta chỉ phản đối ở khía cạnh ảnh hưởng về lượng bùn, cát ở ĐBSCL và ảnh hưởng các loại thủy sinh, chứ chưa phát biểu về tác động của việc gây ra hạn và xâm nhập mặn.
Tôi thường xuyên theo dõi thông tin báo chí và rất mừng là Bộ Ngoại giao vừa thông báo: Trung Quốc quyết định xả nước xuống hạ lưu sông Mêkông. Nhưng, tôi nghĩ rằng vấn đề hạn và mặn sẽ còn diễn tiến phức tạp trong tương lai. Ngay ở trong nước, việc xả nước các hồ thủy điện trong mùa khô phục vụ sản xuất (ví dụ như huy động các hồ thủy điện ở miền Bắc như Hòa Bình, Tuyên Quang, Thác Bà xả nước phục vụ đổ ải, gieo cấy lúa vụ đông xuân hàng năm cho ĐBSH) còn khó khăn nữa là giữa hai quốc gia, dân tộc.
Bởi vậy, khi ta đề nghị người ta mở nước thì cần phải tính xem ta cần bao nhiêu để họ có kế hoạch xả kết hợp với phát điện để đạt hiệu quả kinh tế tốt nhất. Điều quan trọng ở đây đây là cần lưu lượng nước trên các hệ thống sông để đẩy mặn chứ không phải là cần nước để chống hạn.
Giải pháp chuyển đổi cây trồng thích ứng với hạn, mặn thì sao, phải chăng là điều cần thiết trong lúc này?
Về lý thuyết, chúng ta đã có những giống lúa chịu độ mặn khoảng 4‰, còn các loại cây ăn quả khoảng 2 - 3‰. Nhưng theo tôi, việc chuyển đổi sang các cây trồng chịu mặn chỉ là giải pháp tình thế trước mắt. Bởi, nếu tình hình nhiễm mặn diễn ra trong thời gian dài sẽ làm hỏng hết chất đất của khu vực ĐBSCL. Thứ hai, những sản phẩm cây trồng của vùng nước mặn bán không được giá vì không ai ăn một thực phẩm có độ mặn vượt mức tiêu chuẩn.
Tôi thấy, điều đáng mừng là người dân có rất nhiều mô hình sáng tạo để “sống chung với hạn, mặn” như: dùng nilon khổ lớn rải xuống ao, hố để trữ nước; đắp đê nhỏ ngăn mặn, tưới tiết kiệm nước, tự dự báo độ mặn tại các cửa cống để lợi dụng lúc triều lên lấy nước ngọt... Nhưng cái chính là nhà nước phải đề ra những giải pháp mang tính chất cơ bản và dài hơi hơn.
Xin cảm ơn ông!