Những ngày đầu của một đất nước thiếu ăn
Hiện nay, Việt Nam đã vươn lên trở thành một trong 15 quốc gia xuất khẩu nông sản hàng đầu thế giới. Thành quả ấy được hun đúc suốt 80 năm qua, khi nông nghiệp, nông dân và nông thôn luôn được Đảng, Nhà nước quan tâm, đặt ở vị trí chiến lược trong sự nghiệp phát triển đất nước. Và chỉ khi nhìn lại chặng đường ấy, mới thấy rõ vai trò đặc biệt quan trọng của khoa học công nghệ.

Theo Thứ trưởng Phùng Đức Tiến, khoa học công nghệ từ lâu đã được khẳng định là yếu tố quyết định vị thế của quốc gia. Ảnh: Phạm Hiếu.
Năm 1945, đất nước vừa giành độc lập đã phải đối diện với nạn đói khủng khiếp. Đồng ruộng cạn kiệt, làng xóm tiêu điều, hơn hai triệu đồng bào chết đói. Đất nước đứng trước những thách thức lớn, đó là thiếu ăn, thiếu mặc, thiếu cả cơ sở để sản xuất và phát triển.
Thời điểm đó, dân số Việt Nam mới chỉ khoảng 25 triệu người. Trong hoàn cảnh cơ chế chính sách còn sơ khai, khoa học công nghệ chưa có điều kiện phát triển sau nhiều thập kỷ dưới ách đô hộ của thực dân Pháp.
Tuy vậy, giai đoạn 1945 – 1954, đất nước vẫn kịp ghi dấu những chuyển biến tích cực. Chỉ trong chưa đầy một thập niên, lương thực đã đủ bảo đảm cho quân đội, công an và toàn xã hội, đồng thời phục vụ kháng chiến, góp phần vào thắng lợi Điện Biên Phủ lừng lẫy năm châu.
Giai đoạn 1954 – 1975, đất nước tiếp tục ghi dấu những bước tiến quan trọng với khẩu hiệu "thóc không thiếu một cân, quân không thiếu một người", cùng phong trào xây dựng những "cánh đồng 5 tấn". Thành quả ấy khẳng định vai trò to lớn của khoa học công nghệ, từ nghiên cứu giống lúa, chăn nuôi, thủy sản, lâm nghiệp cho tới địa chất, khoáng sản và môi trường.

Cơ giới hóa trên đồng ruộng ở Phú Thọ. Ảnh: Phạm Hiếu.
Hình ảnh Bác Hồ cùng ngư dân Thanh Hóa kéo lưới động viên bà con đã trở thành biểu tượng sống động của tinh thần đó. Đây cũng là thời kỳ Việt Nam phát triển hợp tác xã để vươn khơi đánh bắt xa bờ, đặt nền móng khoa học công nghệ vững chắc cho những đột phá sau này.
Giai đoạn 1976 – 1989, đất nước từng bước chuyển mình từ cơ chế tập trung bao cấp sang cơ chế khoán với những dấu mốc quan trọng như "Chỉ thị 100" năm 1981 và "Khoán 10" năm 1988, khoán đến tận hộ nông dân. Cơ chế, chính sách dần hoàn thiện, thúc đẩy sản xuất phát triển mạnh mẽ. Cùng thời gian ấy, nhiều giống cây trồng, cây lâm nghiệp, giống gia súc, gia cầm mới, chất lượng cao được đưa vào sản xuất. Ngành nuôi trồng và khai thác thủy sản cũng bắt đầu chế biến để xuất khẩu. Năm 1989 trở thành bước ngoặt lịch sử khi từ chỗ thiếu đói, Việt Nam đã vươn lên trở thành nước xuất khẩu lương thực với giá trị lớn.
Khoa học công nghệ đồng hành trong từng lĩnh vực
Từ sau đổi mới, nông nghiệp Việt Nam không ngừng viết tiếp những kỳ tích. Năm 2023, nước ta xuất khẩu 8,13 triệu tấn gạo, đến năm 2024 nâng lên 9,15 triệu tấn. Từ chỗ lo đủ ăn, hạt gạo Việt Nam nay đã khẳng định vị thế trên thị trường quốc tế với chất lượng cao, uy tín lớn và bảo đảm nông dân trồng lúa có lợi nhuận trên 30%.

Nuôi biển công nghệ cao. Ảnh: Duy Học.
80 năm qua, dấu ấn của khoa học công nghệ hiện diện trong từng bước phát triển của nông nghiệp, nông thôn, nông dân, tài nguyên và môi trường. Những ứng dụng thực tiễn, từ giống cây, con, vật tư đầu vào đến quản lý tài nguyên, xử lý môi trường, tạo nên động lực then chốt giúp đất nước đi từ một nền nông nghiệp thiếu ăn, phụ thuộc, đến một quốc gia có vị thế xuất khẩu hàng đầu thế giới.
Trong lĩnh vực thủy sản, khoa học công nghệ đã mở ra nhiều hướng đi mới với những giống nuôi chủ lực như tôm thẻ chân trắng, cá tra. Mặt hàng cá tra nhiều năm qua trở thành mũi nhọn của kinh tế thủy sản. Năm 2025, sản lượng cá tra dự kiến đạt 1,65 triệu tấn, kim ngạch xuất khẩu khoảng 2 tỷ USD. Ngành hàng tôm cũng đặt mục tiêu sản lượng 1,3 - 1,4 triệu tấn, xuất khẩu 4,3 tỷ USD trong năm 2025. Từ những vuông tôm quảng canh truyền thống, đến nay Việt Nam đã hình thành nhiều mô hình nuôi tôm công nghệ cao, đạt năng suất tới 60 tấn mỗi hecta.
Chăn nuôi cũng được nâng tầm nhờ thành tựu khoa học công nghệ. Với điều kiện và quy trình chăn nuôi tốt, một con lợn nái hiện nay trung bình mỗi năm có thể sinh và nuôi 32 - 34 lợn con với tốc độ sinh trưởng nhanh và tỉ lệ sống cao.
Không chỉ riêng lợn, ngành chăn nuôi gia cầm, thủy cầm cũng đạt những bước tiến lớn. Giống gà, vịt chất lượng cao được chọn lọc, nuôi theo quy trình công nghệ, giúp nâng năng suất và sức đề kháng. Chăn nuôi bò sữa, bò thịt, dê, cừu cũng được áp dụng khoa học kỹ thuật về giống, thức ăn và quản lý chăm sóc, tạo ra sản lượng lớn, chất lượng cao. Các mô hình chăn nuôi công nghệ cao như chuồng trại tự động, kiểm soát môi trường cho phép giảm dịch bệnh, tăng hiệu quả kinh tế và đảm bảo an toàn thực phẩm.

Chăn nuôi bò sữa công nghệ cao. Ảnh: Nhi Trần.
Trong lĩnh vực thú y, Việt Nam đã chủ động nghiên cứu, sản xuất nhiều loại vacxin quan trọng như lở mồm long móng, tai xanh, cúm gia cầm…, góp phần bảo vệ vững chắc đàn vật nuôi. Song song đó, các phương pháp chăn nuôi an toàn sinh học được triển khai rộng rãi, bao gồm quản lý dịch tễ, kiểm soát vệ sinh chuồng trại, xử lý chất thải hợp lý và kiểm soát nguồn nước. Giống vật nuôi được chọn lọc và cải tiến để tăng sức đề kháng, giảm nguy cơ dịch bệnh, đồng thời áp dụng các kỹ thuật nuôi hiện đại giúp đàn vật nuôi sinh trưởng nhanh, năng suất cao.
Nhờ những bước tiến này, chăn nuôi Việt Nam không chỉ đáp ứng nhu cầu nội địa mà còn tạo tiền đề cho xuất khẩu, góp phần quan trọng vào giá trị kinh tế của ngành nông nghiệp.
Trong trồng trọt, xu hướng sinh học ngày càng đậm nét, thể hiện rõ qua việc ứng dụng thuốc bảo vệ thực vật sinh học hiện chiếm 17% và đang hướng tới mục tiêu 30%. Lượng phân bón nhập khẩu đã giảm mạnh, đồng thời mục tiêu dài hạn là khoảng 4 triệu tấn phân bón hữu cơ được sử dụng mỗi năm.
Các cơ sở nghiên cứu khoa học đóng vai trò then chốt trong việc kiểm soát sâu bệnh hại trên đồng ruộng, nghiên cứu giống cây thích ứng tốt với điều kiện khí hậu, đất đai và kháng bệnh. Song song đó, các phương pháp, quy trình canh tác thông minh, bền vững được áp dụng rộng rãi, từ quản lý dinh dưỡng, luân canh đến kiểm soát côn trùng và sâu bệnh giúp nâng cao năng suất, giảm chi phí đầu vào và hạn chế tác động đến môi trường.
Nhờ các giải pháp này, sản xuất nông nghiệp Việt Nam ngày càng thân thiện với môi trường, tạo ra những sản phẩm chất lượng cao, an toàn sinh học, đồng thời đóng góp vào phát triển bền vững và gia tăng khả năng cạnh tranh trên thị trường quốc tế.

Hệ thống tưới tự động giúp kiểm soát lượng nước tưới. Ảnh: Phạm Hiếu.
Lâm nghiệp cũng chứng kiến những bước tiến vượt bậc. Nếu như năm 2004, khi Luật Bảo vệ và Phát
Năm 2024, xuất khẩu nông sản đạt 62,5 tỷ USD, thặng dư thương mại 17,9 tỷ USD. Chỉ trong 7 tháng đầu năm 2025, kim ngạch đã đạt 39,68 tỷ USD, thặng dư 11,52 tỷ USD, tăng 15,9% so với cùng kỳ năm trước. Mục tiêu năm 2025 là cán mốc 65 tỷ USD, dù bối cảnh trong nước và quốc tế còn nhiều biến động, khó khăn và thách thức.
triển rừng bắt đầu được thực thi, độ che phủ rừng của cả nước mới chỉ đạt 37% thì đến nay con số này đã vượt 42%, kim ngạch xuất khẩu gỗ và sản phẩm gỗ đạt 16,25 tỷ USD (năm 2024).
Không chỉ diện tích được mở rộng, chất lượng rừng cũng được nâng cao rõ rệt, từ rừng phòng hộ, rừng đặc dụng đến rừng sản xuất, góp phần quan trọng trong bảo vệ môi trường sinh thái và giảm nhẹ thiên tai.
Đáng chú ý, rừng ngày càng trở thành nguồn sinh kế ổn định cho hàng triệu hộ dân sống dựa vào nghề rừng. Quỹ Dịch vụ môi trường rừng liên tục tăng trưởng, tạo ra nguồn lực bền vững để nâng cao chất lượng rừng và khuyến khích người dân gắn bó lâu dài. Trên nền tảng đó, các chuỗi liên kết khép kín đã được hình thành từ sản xuất giống cây, canh tác, khai thác, vận chuyển đến chế biến gỗ và lâm sản, tạo giá trị gia tăng cao và mở rộng thị trường xuất khẩu.
Những thành tựu này cho thấy lâm nghiệp Việt Nam không chỉ là “lá phổi xanh” của đất nước mà còn khẳng định vị trí quan trọng trong phát triển kinh tế xanh và kinh tế tuần hoàn.
Hạ tầng phục vụ lâm nghiệp, chăn nuôi, thủy sản và trồng trọt cũng từng bước hoàn thiện, logistics đáp ứng được nhu cầu. Cùng với nghiên cứu khoa học, hệ thống chế biến và chế biến sâu được đẩy mạnh, góp phần nâng cao chất lượng, tăng năng suất, giảm giá thành sản phẩm và tăng sức cạnh tranh trên thị trường quốc tế.

Giống cây lâm nghiệp được nghiên cứu tại Viện Khoa học Lâm nghiệp Việt Nam. Ảnh: Phạm Hiếu.
Trong lĩnh vực đất đai, môi trường và khoáng sản, khoa học công nghệ góp phần đo vẽ bản đồ, phân loại đất, xác định tiềm năng tài nguyên. Ảnh viễn thám được ứng dụng để theo dõi biến động tài nguyên, dự báo và cảnh báo thiên tai. Nhiều kết quả nghiên cứu còn được áp dụng vào các công trình thủy lợi tầm khu vực và quốc tế. Dự báo biến đổi khí hậu ngày càng chính xác, trong khi ứng dụng khoa học giúp khai thác, sử dụng hiệu quả khoáng sản.
Kinh tế - xã hội - môi trường được xác định là 3 trụ cột trong phát triển bền vững, Việt Nam đã nghiên cứu, ứng dụng công nghệ xử lý nhiều sự cố trong lĩnh vực môi trường như rác thải rắn, lỏng, nhựa, chất thải nguy hại từ làng nghề, đô thị, khu công nghiệp ở các lưu vực sông. Việt Nam luôn khẳng định quan điểm xuyên suốt là không đánh đổi môi trường để lấy tăng trưởng kinh tế.
Khai mở tiềm năng, lợi thế từ Nghị quyết 57
Khoa học công nghệ từ lâu đã được khẳng định là yếu tố quyết định vị thế của một quốc gia. Lịch sử phát triển thế giới cho thấy những nước biết quan tâm, tập trung và đầu tư cho khoa học công nghệ đều vươn lên mạnh mẽ, tạo nên những kỳ tích phát triển như Hoa Kỳ, Nhật Bản, Hàn Quốc, Trung Quốc, Đức, Anh, Pháp…

Nhiều công nghệ mới được áp dụng vào trồng trọt tại Bình Thuận. Ảnh: Huỳnh Sang.
Trong suốt 80 năm qua, Việt Nam cũng đã dành sự quan tâm nhất định cho khoa học công nghệ, song vẫn chưa thực sự khai mở hết tiềm lực, tiềm năng và lợi thế sẵn có. Bước vào giai đoạn 2026 – 2030, đất nước đang chuẩn bị tâm thế mới, nhận thức rõ ràng hơn vai trò của khoa học công nghệ là động lực then chốt để phát triển, đặc biệt trong lĩnh vực nông nghiệp và môi trường.
Chúng ta có lợi thế về nguồn nhân lực trí thức đông đảo, có hệ thống tổ chức khoa học công nghệ ngày càng bền vững, có cơ sở vật chất và trang thiết bị phần nào đáp ứng nhu cầu nghiên cứu. Cùng với đó, việc trao quyền tự chủ cho các đơn vị nghiên cứu đã mở ra những cơ hội để phát huy trí tuệ tập thể. Tuy nhiên, vẫn cần thẳng thắn nhìn nhận, nhiều thể chế, cơ chế về tài chính, cơ chế nghiệm thu, cơ chế tổ chức vẫn còn những hạn chế nhất định, chưa tạo được sự bứt phá.
Thời gian tới, việc thực hiện đồng bộ các Nghị quyết 57, 59, 66, 68, đặc biệt là Nghị quyết 57-NQ/TW về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia đã được Bộ Nông nghiệp và Môi trường bắt nhịp triển khai nghiêm túc. Đây là dấu mốc quan trọng cho thấy khoa học công nghệ đã thực sự được đặt vào vị trí giải pháp, động lực hàng đầu trong phát triển đất nước. Hàng loạt cơ chế, chính sách mới đã và đang hình thành để tạo ra môi trường thuận lợi cho nghiên cứu, sáng tạo, giúp các nhà khoa học có điều kiện thỏa sức cống hiến, biến đam mê thành những kết quả mang tính ứng dụng cao.

Nghị quyết 57 là nền tảng để phát huy lợi thế, tiềm năng từ khoa học công nghệ. Ảnh: Thanh Hậu.
Từ năm 2026, Bộ Nông nghiệp và Môi trường sẽ triển khai nhiều đề tài nghiên cứu, trong đó có 28 nhiệm vụ gắn với Nghị quyết số 57, đồng thời kiến nghị các giải pháp để giải quyết hơn 20 “bài toán lớn” của ngành nông nghiệp và môi trường. Những bài toán này liên quan trực tiếp đến các đối tượng, sản phẩm chủ lực, đòi hỏi cách tiếp cận căn cơ, toàn diện và hệ thống nhằm kiến tạo không gian phát triển mới cho ngành.
Bộ Nông nghiệp và Môi trường hi vọng, với sự đồng hành của cơ chế, chính sách và nguồn lực, đội ngũ trí thức khoa học công nghệ sẽ có nhiều cơ hội khẳng định tài năng, đóng góp xứng đáng vào sự nghiệp chung. Chắc chắn, những thành quả nghiên cứu sẽ mang lại những dấu ấn đậm nét, những bước tiến mới cho ngành nông nghiệp và môi trường trong kỷ nguyên vươn mình của đất nước.
Với tinh thần dân chủ và tập trung, thời gian qua, Bộ Nông nghiệp và Môi trường đã mời các nhà khoa học, chuyên gia, cơ quan quản lý, viện, trường cùng ngồi lại để bàn thảo, tìm lời giải cho những "bài toán lớn" của ngành.
Điển hình như trong lĩnh vực thủy sản, 3 “bài toán” trọng tâm được đặt ra là: Tạo sự bứt phá trong nuôi trồng; nâng cao năng lực chế biến, đặc biệt là chế biến sâu; phát triển công nghệ khai thác gắn với mục tiêu bảo tồn bền vững.
Ở các lĩnh vực khác, với yêu cầu không kém phần cấp thiết là xây dựng bản đồ viễn thám phục vụ phát triển kinh tế, đồng thời phục vụ công tác phòng chống thiên tai và thích ứng biến đổi khí hậu. Nông nghiệp cũng cần những lời giải về nâng cao sức khỏe đất để thúc đẩy trồng trọt, phát triển lâm nghiệp. Từ đó hình thành những sản phẩm OCOP chất lượng cao, vừa mang đậm bản sắc văn hóa vùng miền, vừa đủ sức hội tụ tinh hoa để tỏa sáng trên thị trường quốc tế.
Phạm Hiếu - Lê Bền - Thúy Hằng (ghi)