Việt Nam đã có lịch sử phát triển bèo hoa dâu (Azolla) từ lâu. Vào thế kỷ XI - XII Quốc sư triều Lý là Nguyễn Minh Không đã đưa cây bèo hoa dâu về làng La Miên, xã La Vân, tỉnh Thái Bình.
Những năm 1975 - 1985, nước ta phát triển bèo hoa dâu trên những cánh đồng lúa ở đồng bằng sông Hồng (Thái Bình, Hải Dương, Hà Nam…) để bón cho lúa rất tốt, không có phân hóa học mà chỉ có phân chuồng và bèo hoa dâu mà thôi.
Sau 1979, phong trào phát triển và sử dụng bèo hoa dâu không còn nữa vì nó được phân hóa học thay thế và nông dân rất ủng hộ cho đến hiện nay. Sau hơn 50 năm sử dụng phân hóa học và sản xuất nông nghiệp nước ta theo hướng phát triển số lượng, đất nông nghiệp bị bạc màu, đồng nghĩa với độ phì và sức khỏe đất suy giảm, chất lượng nông sản cũng giảm theo.
Thuốc trừ cỏ và thuốc BVTV sử dụng quá nhiều, môi trường bị phá hủy, sức khỏe của nông dân và sức sản xuất đều suy giảm. Suy cho cùng, sản xuất lúa nước nếu không chấn chỉnh sẽ là một “tội đồ” với môi trường. Chính vì thế, phải khẩn trương sản xuấn nông nghiệp theo hướng xanh, muốn vậy, cây bèo hoa dâu sẽ là đối tượng cần được quan tâm trong giai đoạn này.

Bèo hoa dâu thể hiện khả năng hấp thu CO2 đáng kinh ngạc, vượt trội so với nhiều hệ sinh thái tự nhiên khác.
Bèo hoa dâu thể hiện khả năng hấp thu carbon (CO2) đáng kinh ngạc, vượt trội so với nhiều hệ sinh thái tự nhiên khác. Các ước tính cho thấy bèo hoa dâu có khả năng loại bỏ hàng chục tấn CO2 trên mỗi hecta/năm. Khả năng cố định đạm tự thân của nó không chỉ hỗ trợ tăng trưởng nhanh mà còn giảm nhu cầu sử dụng phân bón hóa học, từ đó giảm được đáng kể phát thải CO2 và N2O.
Để chuyển hóa carbon hấp thu thành tín chỉ có giá trị, việc lưu trữ carbon lâu dài thông qua các phương pháp như sản xuất Biochar hoặc chôn lấp sinh khối trong điều kiện kỵ khí là rất quan trọng.
Bèo hoa dâu phát triển nhanh và có khả năng hấp thu CO2 trong khí quyển gấp nhiều lần so với đồng cỏ và rừng tại Anh. Lượng CO2 hấp thu trong 1 hecta bèo hoa dâu có thể lên tới 30 tấn CO2/năm, trong khi đó đồng cỏ chỉ là 1 tấn CO2/ha/năm và rừng vào khoảng 7 tấn CO2/ha/năm (Ben Mozt và cộng sự năm, 2008), đây được xem như nhân tố giảm phát thải trong nông nghiệp. Trong canh tác lúa, bèo hoa dâu đã hạn chế sự mất đạm (NH3) từ 25 - 40% (Paul và cộng sự, 1995).
Ngoài ra bèo hoa dâu còn có chức năng xử lý môi trường nước, làm giảm các kim loại nặng trong nước và đã được ứng dụng để xử lý nước thải công nghiệp nhiều nơi trên thế giới (Sela và cộng sự, 1985).
Các tổ chức chứng nhận hàng đầu như Verra và Gold Standard có các phương pháp luận liên quan đến sinh khối và nông nghiệp, nhưng việc phát triển các phương pháp luận chuyên biệt cho Azolla sẽ là yếu tố then chốt để mở khóa toàn bộ tiềm năng của nó trên thị trường carbon (CO2).

Hiện nay bèo hoa dâu đang được một số nơi nhân nuôi trở lại trên đồng ruộng.
Bèo hoa dâu phát triển mạnh ở nhiều môi trường sống dưới nước đa dạng, bao gồm ao, mương, hồ và sông chảy chậm. Đặc điểm sinh học nổi bật của bèo hoa dâu (Azolla) là năng suất sinh khối cao, chủ yếu do tốc độ quang hợp vượt trội so với hầu hết các cây C4. Điều này cho phép Azolla tích lũy một lượng lớn sinh khối trong khoảng thời gian ngắn, tạo nền tảng cho tiềm năng hấp thu carbon(C02) của nó.
Lịch sử đã cung cấp bằng chứng tự nhiên về khả năng hấp thu carbon mạnh mẽ từ bèo hoa dâu và cho thấy đây là "loài thực vật kỳ diệu". Bèo hoa dâu phát triển tối ưu ngay cả trong điều kiện thiếu Nitơ (N) trong nước vì Anabaena (cộng sinh với bèo hoa dâu) có khả năng tự cung cấp đủ Nitơ cho chính nó và cho bèo hoa dâu. Điều này giải thích tại sao bèo hoa dâu có thể nhân đôi sinh khối chỉ trong vài ngày khi được cấy Anabaena.
Khả năng cố định đạm (N) độc lập của bèo hoa dâu không chỉ là một lợi ích cho nông nghiệp mà còn là yếu tố then chốt cho tiềm năng hấp thu carbon của nó. Khả năng này loại bỏ một trong những yếu tố hạn chế tăng trưởng chính cho thực vật. Việc tự cung cấp Nitơ này là nền tảng cho toàn bộ tiềm năng giảm thiểu biến đổi khí hậu của bèo hoa dâu, cho phép nó hoạt động như một bể chứa carbon hiệu quả cao.

Thu hoạch lúa chất lượng cao, áp dụng quy trình canh tác phát thải thấp ở Cần Thơ. Ảnh: Tạ Quang.
Canh tác lúa bền vững tại ĐBSCL đang được gấp rút thực hiện nhằm giảm phát thải khí nhà kính (giảm N20; CH4; C02); tăng độ phì (độ màu mỡ) và sức khỏe đất trồng lúa; tăng chất lượng và thương hiệu gạo Việt Nam trên thị trường thế giới.
Một doanh nghiệp tiên phong trong phong trào phục hồi và phát triển bèo hoa dâu ở ĐBSCL là Công ty cổ phần Phân bón Bình Điền. Ban lãnh đạo, Hội đồng Khoa học cùng Phòng Nghiên cứu - Phát triển của Bình Điền dự kiến sẽ xây dựng mô hình sản xuất bèo hoa dâu theo hướng công nghiệp (ứng dụng công nghệ cao).
Mô hình vừa nuôi bèo hoa dâu trên 1 ha theo mô hình công nghiệp (áp dụng công nghệ cao) với năng suất và hiệu suất cao nhất, phù hợp với tiểu khí hậu nóng tại ĐBSCL, vừa canh tác lúa kết hợp thả bèo hoa dâu trên diện tích 30 ha ở vụ đông xuân 2025 - 2026. Đến vụ đông xuân 2026 - 2027, sẽ mở rộng mô hình canh tác lúa + bèo hoa dâu lên 200 ha và 300 ha vào năm 2030.
Mục tiêu đặt ra của mô hình là giảm 40% lượng phân NPK bón cho lúa và giảm thuốc BVTV. Sản xuất được 20.000 kg bèo hoa dâu tươi cung cấp cho 30 ha lúa canh tác hữu cơ (vụ đông xuân 2025 - 2026). Năng suất lúa tăng 20% so với đối chứng không thả bèo hoa dâu.
Như vậy, cây bèo hoa dâu sẽ sớm phát triển ở ĐBSCL, tạo điều kiện canh tác lúa bền vững, giảm phát thải khí nhà kính.