Sau khi Trung Quốc ban hành Nghị định 280 hôm 14/10, thay thế Nghị định 248 (Lệnh 248) từng áp dụng từ 1/1/2022, nhiều doanh nghiệp xuất khẩu Việt Nam, đặc biệt trong lĩnh vực nông sản, bày tỏ lo ngại rằng quy định mới có thể ảnh hưởng đến việc đăng ký mã số vùng trồng và cơ sở đóng gói, vốn là điều kiện tiên quyết để trái cây tươi được thông quan.
Tuy nhiên, theo cơ quan chuyên môn, Nghị định 280 chỉ điều chỉnh nhóm thực phẩm và nông sản đã qua chế biến, không liên quan đến các sản phẩm tươi sống như sầu riêng, thanh long, xoài...
Để làm rõ hơn phạm vi tác động của Nghị định này, cũng như những điểm mới trong cơ chế quản lý của Tổng cục Hải quan Trung Quốc (GACC), phóng viên đã có cuộc trao đổi với TS Ngô Xuân Nam, Phó Giám đốc Văn phòng SPS Việt Nam, cơ quan đầu mối phụ trách thực thi các quy định về kiểm dịch động, thực vật và an toàn thực phẩm trong thương mại nông sản giữa Việt Nam và Trung Quốc.

Ông Ngô Xuân Nam, Phó Giám đốc Văn phòng SPS Việt Nam. Ảnh: Bảo Thắng.
PV: Thưa ông, vừa qua GACC ban hành Nghị định 280, thay thế Nghị định 248 về quản lý đăng ký doanh nghiệp sản xuất, chế biến, bảo quản thực phẩm nhập khẩu. Nhiều ý kiến cho rằng quy định mới này sẽ ảnh hưởng đến xuất khẩu nông sản tươi của Việt Nam, đặc biệt là trái cây. Xin ông chia sẻ về vấn đề này?
Ông Ngô Xuân Nam: Đây là một hiểu nhầm khá phổ biến. Nghị định 280 của GACC tập trung điều chỉnh nhóm thực phẩm và nông sản đã qua chế biến, tức những mặt hàng nằm trong nhóm processed food như sấy khô, đóng hộp, đóng gói, hoặc các sản phẩm có công đoạn xử lý công nghiệp.
Đối với trái cây tươi, rau tươi, ngũ cốc hay nông sản sơ chế, việc xuất khẩu sang Trung Quốc vẫn tuân theo các nghị định thư song phương đã được ký giữa hai nước, trong đó mã số vùng trồng và mã số cơ sở đóng gói là yếu tố bắt buộc và được quản lý hoàn toàn tách biệt. Nói cách khác, Nghị định 280 không thay đổi, không ảnh hưởng và cũng không thay thế các quy định về mã số vùng trồng hiện hành.
PV: Vậy cụ thể, những điểm mới nào trong Nghị định 280 được xem là quan trọng nhất và có tác động như thế nào đến nhóm sản phẩm thực phẩm chế biến mà Việt Nam đang xuất khẩu?
Ông Ngô Xuân Nam: Điểm cốt lõi của Nghị định 280 là chuyển từ cơ chế quản lý hành chính sang quản lý dựa trên rủi ro (risk-based classification). Nếu như Nghị định 248 trước đây yêu cầu hệ thống quản lý an toàn thực phẩm của quốc gia xuất khẩu phải được GACC thẩm định tương đương, thì quy định mới loại bỏ điều kiện “đánh giá tương đương bắt buộc” này.
Thay vào đó, Trung Quốc sẽ phân loại sản phẩm và doanh nghiệp theo mức độ rủi ro, rồi áp dụng yêu cầu quản lý khác nhau. Điều này giúp linh hoạt hơn, phù hợp với thông lệ SPS/WTO, và giảm đáng kể gánh nặng thủ tục cho doanh nghiệp. Ngoài ra, cơ chế gia hạn đăng ký tự động cũng là điểm tiến bộ đáng chú ý. Mã số doanh nghiệp sẽ được tự động gia hạn thêm 5 năm nếu không có vi phạm hoặc rủi ro an toàn thực phẩm, thay vì phải nộp hồ sơ gia hạn thủ công như trước.
PV: Với thay đổi đó, nhóm doanh nghiệp nào của Việt Nam cần đặc biệt lưu ý khi Nghị định 280 có hiệu lực?
Ông Ngô Xuân Nam: Nhóm chịu tác động trực tiếp là doanh nghiệp sản xuất, chế biến, bảo quản thực phẩm xuất khẩu sang Trung Quốc, bao gồm các nhà máy chế biến nông sản, thủy sản, sản phẩm từ thịt, sữa, tinh bột, nước ép, đồ uống hoặc nông sản sấy khô.
Các doanh nghiệp này cần rà soát lại mã đăng ký doanh nghiệp đã đăng ký trên cổng CIFER của GACC, đặc biệt là những đơn vị có thay đổi về địa điểm, pháp nhân hoặc giấy phép đăng ký trong nước. Bởi trong Nghị định 280, GACC quy định rõ, nếu có thay đổi lớn ảnh hưởng đến hệ thống quản lý an toàn thực phẩm, mã đăng ký sẽ hết hiệu lực ngay lập tức.
Với các cơ sở bảo quản, kho lạnh hoặc kho trung chuyển ở nước ngoài, Nghị định 280 cũng làm rõ phạm vi áp dụng. Nhóm này phải đăng ký nếu có tham gia vào chuỗi bảo quản sản phẩm chế biến trước khi xuất khẩu vào Trung Quốc.

Nghị định 280 tập trung điều chỉnh sản phẩm đã qua chế biến. Ảnh: Bảo Thắng.
PV: Có ý kiến lo ngại rằng việc phân loại quản lý theo rủi ro sẽ tạo ra sự phân tầng, khiến doanh nghiệp Việt Nam chịu rào cản kỹ thuật cao hơn. Ông đánh giá như thế nào về quan điểm này?
Ông Ngô Xuân Nam: Thực ra, đây là một bước tiến, không phải rào cản. Khi GACC áp dụng quản lý dựa trên rủi ro, họ sẽ dựa vào lịch sử tuân thủ và mức độ an toàn của từng nước xuất khẩu.
Nếu Việt Nam duy trì hệ thống kiểm soát an toàn thực phẩm hiệu quả, minh bạch và có cơ chế cảnh báo sớm, như Văn phòng SPS Việt Nam đang triển khai Cổng thông tin dữ liệu quốc gia về SPS, căn cứ Quyết định 534/2024/QĐ-TTg về nâng cao hiệu quả thực thi các biện pháp vệ sinh dịch tễ và kiểm dịch động, thực vật (SPS) của Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) và cam kết SPS trong khuôn khổ các Hiệp định thương mại tự do (FTA), thì rủi ro sẽ được đánh giá thấp. Doanh nghiệp Việt Nam sẽ được xếp vào nhóm ưu tiên.
Vấn đề là các cơ quan quản lý phải tiếp tục đồng bộ dữ liệu vùng trồng, vùng sản xuất, cơ sở chế biến và hệ thống truy xuất nguồn gốc. Đây là căn cứ quan trọng giúp Trung Quốc và các đối tác tin tưởng vào năng lực quản lý của Việt Nam.
PV: Như vậy, ông có thể khẳng định lại rằng Nghị định 280 không làm thay đổi những quy định, cũng như cách thức quản lý mã số vùng trồng, mã số cơ sở đóng gói - điều đang được người nông dân và doanh nghiệp đặc biệt quan tâm?
Ông Ngô Xuân Nam: Tôi khẳng định điều đó. Mã số vùng trồng và cơ sở đóng gói vẫn do hai bên thống nhất và quản lý theo các Nghị định thư về kiểm dịch thực vật giữa Việt Nam và Trung Quốc.
Nghị định 280 không điều chỉnh nhóm hàng tươi sống, vì vậy các quy trình cấp mã số, giám sát vùng trồng, truy xuất nguồn gốc hay kiểm dịch cửa khẩu vẫn được thực hiện theo cơ chế song phương giữa Cục Trồng trọt và Bảo vệ Thực vật Việt Nam với GACC.
Điều quan trọng là chúng ta không nên đồng nhất giữa “đăng ký doanh nghiệp chế biến” với “đăng ký vùng trồng”. Hai khái niệm này thuộc hai hệ thống quản lý hoàn toàn khác nhau.
PV: Vậy theo ông, doanh nghiệp Việt Nam cần chuẩn bị gì trong thời gian chuyển tiếp trước khi quy định mới có hiệu lực?
Ông Ngô Xuân Nam: Từ nay đến khi Nghị định 280 có hiệu lực (ngày 1/6/2026), doanh nghiệp nên chủ động rà soát lại toàn bộ hồ sơ đăng ký với GACC, kiểm tra tình trạng hiệu lực mã số, cập nhật thông tin pháp lý và quy trình sản xuất. Cùng với đó, nâng cao tiêu chuẩn an toàn thực phẩm, quản lý rủi ro và truy xuất nguồn gốc nội bộ để đáp ứng yêu cầu của cơ chế mới.
Với nhóm sản phẩm chế biến, việc duy trì chứng nhận HACCP, ISO 22000 hay tương đương sẽ là điểm cộng lớn. Còn với trái cây tươi, điều quan trọng nhất vẫn là tuân thủ nghiêm vùng trồng và cơ sở đóng gói đã được cấp mã số. Đây vẫn là “giấy thông hành” duy nhất giúp nông sản Việt, trong đó có trái cây tươi vào được thị trường Trung Quốc.