Tiền Giang tham gia Đề án 1 triệu ha chuyên canh lúa chất lượng cao và phát thải thấp vùng ĐBSCL với diện tích 29.500ha.
Ông Trần Hoàng Nhật Nam, Phó Giám đốc Sở Nông nghiệp và Môi trường Tiền Giang cho biết, Sở đã tham mưu UBND tỉnh ban hành kế hoạch thực hiện Đề án đến năm 2030 nhằm hướng dẫn, khuyến khích các tổ chức, cá nhân tham gia, xây dựng lộ trình thực hiện cho từng giai đoạn và ban hành nhiều công văn chỉ đạo các địa phương thực hiện.

Phát động triển khai Đề án 1 triệu ha lúa tại tỉnh Tiền Giang. Ảnh: Minh Đảm.
Bên cạnh đó, đã tổ chức 108 lớp tập huấn cho 3.240 lượt người về quy trình kỹ thuật sản xuất lúa chất lượng cao, phát thải thấp, quy trình quản lý rơm rạ theo hướng nông nghiệp tuần hoàn, sản xuất lúa áp dụng nguyên tắc “1 phải 5 giảm”, ứng dụng công nghệ cao, cơ giới hóa đồng bộ.
Đối với các mô hình trình diễn, đã thực 4 mô hình thí điểm sản xuất lúa chất lượng cao, giảm phát thải, trong đó 3 mô hình (110ha) trong vụ đông xuân 2024 - 2025 và 1 mô hình (20ha) ở vụ xuân hè 2025.
“Ban đầu nông dân lo năng suất lúa có thể bị giảm khi giảm mạnh lượng giống gieo sạ. Tuy nhiên, khi giảm 50% lượng giống (chỉ còn 70 - 80kg/ha), cây lúa đẻ nhánh tốt, tăng khả năng hấp thu ánh sáng, dinh dưỡng, tăng sức chống chịu sâu bệnh, từ đó tăng năng suất. Mô hình giảm được lượng phân bón và thuốc bảo vệ thực vật giúp nông dân tăng thêm lợi nhuận 8 - 10 triệu đồng/ha/vụ. Ngoài ra, lúa được bao tiêu, áp dụng cơ giới hóa đồng bộ trong gieo sạ, thu hoạch, qua đó đã giải quyết được vấn đề thiếu hụt lao động nông thôn nên bà con rất phấn khởi”, ông Trần Hoàng Nhật Nam cho biết.

Áp dụng cơ giới hóa trong mô hình trình diễn Đề án 1 triệu ha lúa. Ảnh: Minh Đảm.
Hiện nay, việc triển khai Đề án vẫn còn một số khó khăn nhất định. Trong đó, hạ tầng thủy lợi một số nơi chưa đảm bảo, biến đổi khí hậu ảnh hưởng đến việc áp dụng quy trình sản xuất đồng bộ.
Cụ thể, vụ đông xuân 2024 - 2025, tại vùng ngọt hóa Gò Công một số vùng trũng, đê bao thấp bị ngập úng khi tích nước chống hạn, do đó chưa thể đáp ứng được kỹ thuật tưới ngập - khô xen kẽ và xử lý rơm rạ sau thu hoạch.
Một số HTX, tổ hợp tác năng lực quản lý điều hành còn hạn chế. Doanh nghiệp liên kết sản xuất, tiêu thụ lúa gạo còn ít. Cơ chế, chính sách huy động và bố trí nguồn lực triển khai Đề án còn hạn chế, trong đó việc quản lý, sử dụng vốn ODA chưa chủ động; thiếu máy sạ cụm kết hợp vùi phân, thiết bị cảm ứng mực nước, thiết bị đo phát thải khí nhà kính.

Ông Trần Hoàng Nhật Nam (phải) kiểm tra lúa trong mô hình trình diễn. Ảnh: Minh Đảm.
Thời gian tới, để triển khai Đề án đạt hiệu quả cao, ông Trần Hoàng Nhật Nam cho biết cần thực hiện đồng bộ nhiều giải pháp, nhiệm vụ. Trong đó, trọng tâm là đẩy mạnh đầu tư hệ thống hạ tầng, nhất là hạ tầng thủy lợi nhằm tạo điều kiện thuận lợi áp dụng đồng bộ quy trình kỹ thuật sản xuất lúa chất lượng cao, phát thải thấp.
Bên cạnh đó, tăng cường tuyên truyền và tập huấn để các thành phần tham gia Đề án nắm rõ ý nghĩa và tuân thủ đúng quy trình sản xuất lúa, đảm bảo tính bền vững của mối liên kết sản xuất và tiêu thụ lúa gạo. Nhân rộng các mô hình thí điểm, hỗ trợ nâng cao năng lực HTX đảm bảo mục tiêu liên kết chuỗi đạt 100%, giải quyết khó khăn về vốn cho sản xuất và thu mua lúa, xây dựng nhãn hiệu, thương hiệu gạo từ Đề án.