
Những khóm bương rất to trong "rừng ma" bản Kết Nà. Ảnh: Dương Đình Tường.
Ông Lò Văn Hiềng, nguyên cán bộ lâm nghiệp xã Phiêng Pằn (huyện Mai Sơn, tỉnh Sơn La) đồng thời là dân bản Kết Nà kể tiếp: “Nó vừa bò vừa ngóc đầu lên cao cỡ nửa mét vừa thở phì phì rồi đột nhiên phi thẳng. Lúc đó tôi đã một vợ, hai con rồi mà thấy con rắn hổ mang chúa còn khóc vì sợ. Người ta đồn nó thường chui vào hang Thẳm Đay mà cái hang đó sâu lắm, lại nhiều ngóc ngách bò khắp các quả núi, khi còn thanh niên tôi đi từ 6 giờ sáng đến 6 giờ tối mới ra được. Trong hang có những nhũ đá giống như ngôi nhà; có những nhũ đá giống như ruộng bậc thang, đẹp lắm. Con rắn chính là thần rừng, mỗi khi nó xuất hiện thường hay có lũ to”.
“Rừng ma” ở Kết Nà cũng là nghĩa địa. Ai mất thì người thân đem ra đó chôn. Những cây cối trong rừng bình thường che bóng mát cho người sống thì nay lại che chở linh hồn cho người chết. Bởi thế mà bất khả xâm phạm. Nếu ai lỡ chặt một cái cây thì ngoài khoản tiền phạt 5-7 triệu còn 40 lít rượu, 20 kg gạo nộp cho bản nữa. Tuy nhiên, từ trước đến nay trong bản chưa ai phải nộp phạt cả.
Tôi là người đầu tiên bên ngoài lên “rừng ma” của bản Kết Nà dù chẳng hề có luật tục cấm nào cả. Khu rừng rộng khoảng 3-4 ha nằm sát điểm trường tiểu học đóng tại bản. Mới bước đến cửa rừng những giác quan trong tôi như được đánh thức. Lúc này khu rừng rộn tiếng chim và ve khiến cho những bước chân của tôi cũng thật khẽ khàng bởi không muốn làm động linh hồn rừng.

Một cổ thụ trong "rừng ma" bản Kết Nà. Ảnh: Dương Đình Tường.
Trong rừng những cây lát, cây dổi gốc to 2 người ôm, cây sâng gốc 3 người ôm và rất nhiều tre, bương. Tôi chưa thấy ở đâu có những búi bương to như thế, thân cỡ như cái phích trở lên, mọc thẳng tắp như những cột chống trời. Nhà ông Hiềng gần rừng, đã thoáng mát rồi nhưng ông vẫn thích những trưa hè như thế này vào hẳn trong rừng ngồi dưới tán cây, nghe tiếng kêu của đủ loại côn trùng, chim muông, quên cả thời gian, quên cả đói đến nỗi bà vợ phải bắc loa mồm mà gọi: “Ông ơi, đến giờ cơm rồi”.
Mỗi khi đi xa điều đầu tiên ông nhớ rừng, sau đó mới nhớ nhà. Mấy lần ông xuống Hà Nội chơi, mắt bị chói bởi kính ốp của các tòa nhà, tai bị ù bởi tiếng còi xe, mũi bị dị ứng bởi mùi xăng dầu, chỉ muốn mau chóng trở về với màu xanh của khu rừng, với mùi rừng vừa thơm lại vừa mát, với những âm thanh của rừng dịu nhẹ và thư giãn.
Ông Hiềng có thời gian dài làm trong nghề lâm nghiệp nên không lạ gì tình trạng rừng ở quê mình. Năm 1982 ông lấy vợ thì rừng còn xanh lắm, ngoảnh mặt đâu cũng thấy cổ thụ, ven nhà còn toàn cây sâng, phay, lát, sưa… cao 20-30 m, gốc 2-3 người ôm. Từ những năm 90 trở đi rừng bắt đầu bị cạo trọc. Lúc đó đồng bào chỉ lo cái bụng đói chứ không lo cho những cái cây bị đốn trên rừng.

Một góc "rừng ma" bản Kết Nà. Ảnh: Dương Đình Tường.
Khi cây ngô lai bò lên các đỉnh núi, đỉnh đồi thì rừng lùi mãi, lùi mãi lên tận đỉnh Chom Mai, cao hơn 1.000m, đứng ở đấy nhìn thấy cả thành phố Sơn La, cả huyện Bắc Yên, Phù Yên nên thời chiến tranh chống Mỹ còn là trận địa pháo phòng không. Quãng năm 2000 trở lại đây thì bên cạnh “rừng ma” bản còn có rừng cộng đồng hay còn gọi là Pom Thanh niên (Pom nghĩa là rừng-PV) rộng 34 ha.
Từ những vạt rừng còn sót lại bản đã ra hương ước phải bảo vệ bằng được, biến nó thành rừng cộng đồng bởi đó chính là nguồn nước của 85 hộ. Chi bộ Kết Nà ra nghị quyết không ai được lấy măng, chặt cây, xẻ gỗ, làm nương trong rừng cộng đồng, nếu vi phạm phạt 5-6 triệu đồng. Cứ mỗi năm các đoàn thể lại tổ chức đi tuần tra Pom Thanh niên một lần. Nhờ đó mà không chỉ giữ được cây mà còn giữ được cả các động vật như cáo, sóc mà đặc biệt là rắn hổ mang chúa.
Mỗi năm Kết Nà được nhận hơn 20 triệu đồng phí môi trường rừng. Số tiền đó phần dùng để phòng cháy, bồi dưỡng khi đi tuần rừng, phần để tổ chức cúng bản. Cúng bản cũng là cúng rừng để cầu cho mưa thuận gió hòa, cây cối tươi tốt, con người sống nhờ rừng được bình yên. Trong 3 ngày đó người ta cấm vào rừng, cấm lên nương, chỉ ở nhà ăn, chơi và ngủ.
Đặc biệt là bản mổ lợn, mổ gà nấu hai bữa cơm chung để người làm xa cũng như làm gần về cùng ăn tại nhà văn hóa. Mâm cơm được chia đều người già cũng như người trẻ. Đó cũng là quãng thời gian để cho thiên nhiên được nghỉ ngơi tuyệt đối nên ô tô tải cũng bị cấm qua bản vì dân sợ tiếng ồn làm kinh động đến linh hồn rừng.