Khi niềm tin được khơi dậy từ thực tiễn
Những câu chuyện đầu tiên về đồng quản lý không bắt đầu từ sách vở, mà từ những lá đơn viết tay, những buổi họp dân đầy tâm sự. Thời điểm đó, luật còn chưa có, người dân cũng chưa hiểu gì về khung pháp lý. Những người làm chính sách khi ấy phải lật giở từng trang hồ sơ, vật lộn với khoảng cách giữa chính sách và thực tiễn.
“Muốn nắm bắt được tâm tư ngư dân, không thể chỉ làm việc trên giấy. Chúng tôi xuống tận nơi, ngồi bên bếp lửa, uống từng chén trà, nghe từng câu chuyện đời thường. Người dân không thiếu tình yêu biển, họ chỉ thiếu niềm tin và lý do để gắn bó với cộng đồng. Khi Nhà nước chính thức công nhận và mời gọi, họ mới tham gia. Nhưng ở một số nơi như xã Thuận Quý (cũ), người dân còn chủ động viết đơn xin thành lập tổ chức cộng đồng. Đó là lúc vai trò của ngư dân thật sự được đánh thức, từ người bị động trở thành chủ thể quản lý mô hình”, bà Nguyễn Thị Thu Huyền - Điều phối viên quốc gia Chương trình tài trợ các dự án nhỏ (UNDP/GEF/SGP) chia sẻ.

Dự án “Thúc đẩy trao quyền và xây dựng năng lực cho cộng đồng trong quản lý, bảo vệ, phát triển và sử dụng bền vững nguồn lợi thủy sản ven biển” đã xây dựng và vận hành 3 tổ chức cộng đồng ngư dân tham gia đồng quản lý trong bảo vệ nguồn lợi thủy sản theo Luật Thủy sản 2017. Ảnh: Trần Phi.
Trên cơ sở đó, các dự án của UNDP được triển khai theo hướng tiếp cận đa chiều, từ chống khai thác IUU, quản lý tàu cá đến bảo vệ sinh kế, tất cả đều có tác động trực tiếp đến ngư dân. Trong đó, Dự án “Thúc đẩy trao quyền và xây dựng năng lực cho cộng đồng trong quản lý, bảo vệ, phát triển và sử dụng bền vững nguồn lợi thủy sản ven biển” đã hình thành và đưa vào vận hành ba Hội cộng đồng ngư dân theo mô hình đồng quản lý, phù hợp với định hướng của Luật Thủy sản 2017.
“Từ khi mô hình đi vào hoạt động, tinh thần gắn kết cộng đồng ngày càng được củng cố; hoạt động khai thác thủy sản dần đi vào nền nếp, thay thế cho lối khai thác tự phát, đơn lẻ trước đây. Nếu như trước kia, phần lớn ngư dân còn cho rằng ‘của trời cho’ thì nay, họ đã bắt đầu nhìn nhận tài nguyên biển là hữu hạn và cần được gìn giữ”, ông Huỳnh Quang Huy, Phó Chi cục trưởng Chi cục Thủy sản và Biển đảo (Sở Nông nghiệp và Môi trường Lâm Đồng) phấn khởi chia sẻ.
Khi hoạt động khai thác hủy diệt được kiềm chế, môi trường biển dần được khôi phục, và nguồn lợi thủy sản tái sinh mạnh mẽ. Về lâu dài, sản lượng khai thác trong vùng bảo vệ không những được nâng cao mà còn lan tỏa nguồn lợi sang các vùng lân cận, tạo cú hích cho du lịch sinh thái biển phát triển. Việc xây dựng cụm rạn san hô nhân tạo sẽ là “mồi câu” thu hút cá tôm về tụ họp, sinh sản, đồng thời ngăn chặn hiệu quả tàu lưới kéo xâm nhập sai tuyến ven bờ.
“Dự án giúp ổn định sinh kế nhờ khai thác bền vững, đồng thời hình thành và củng cố Quỹ vốn luân chuyển, mở rộng cơ hội đầu tư cho các hoạt động sinh kế mới như du lịch cộng đồng. Sức mạnh tập thể của Hội cộng đồng ngư dân được tăng cường, từ đó hỗ trợ tích cực cho chính quyền địa phương trong quản lý và bảo tồn nguồn lợi, đồng thời thắt chặt mối quan hệ giữa ngư dân và cơ quan quản lý”, ông Huy cho biết.

Đại diện Hội Cộng đồng ngư dân đón nhận thư của Bộ trưởng do bà Nguyễn Thị Thu Huyền (bìa trái) trao. Ảnh: Quỳnh Chi.
Qua quá trình triển khai tại xã Thuận Quý, Tân Thành và Tân Thuận (nay là xã Tân Thành, Lâm Đồng), mô hình đồng quản lý bảo vệ nguồn lợi thủy sản đã trở thành “bản mẫu sống” thu hút các địa phương trong và ngoài tỉnh đến khảo sát, học tập và nhân rộng. Những tài liệu hướng dẫn, báo cáo thực tiễn, phóng sự chuyên đề… không chỉ ghi nhận kết quả bảo tồn loài, mà còn khẳng định tầm quan trọng của việc phân cấp, phân quyền và chia sẻ trách nhiệm giữa Nhà nước và cộng đồng ngư dân.
Trên cơ sở đó, UBND tỉnh Bình Thuận (cũ) đã ban hành hướng dẫn triển khai đồng quản lý tại vùng ven bờ, đồng thời thành lập Ban chỉ đạo cấp huyện để phối hợp chặt chẽ với Hội cộng đồng ngư dân. Ở tầm quốc gia, thành tựu ở khu vực Tân Thành - Hàm Thuận Nam chính là minh chứng thuyết phục để Luật Thủy sản 2017 bổ sung quy định về đồng quản lý và làm nền tảng cho Nghị định 26/2019/NĐ-CP. Sự lan tỏa kiến thức, kinh nghiệm thực tiễn không chỉ góp phần hoàn thiện chính sách, mà còn mở đường cho các cơ chế hỗ trợ khai thác bền vững, bảo vệ sinh kế người dân trong tương lai.
Cộng đồng ngư dân quyết định đến sự thành bại của dự án
Theo ông Huỳnh Quang Huy, các dự án đồng quản lý nguồn lợi thủy sản cần khởi đầu từ “những đốm lửa nhỏ, lan tỏa thành ngọn lửa lớn”. Trước hết, xác định phạm vi vùng biển phù hợp với năng lực quản lý của cộng đồng và chọn ra một số loài mục tiêu gắn chặt với sinh kế ngư dân. Mọi hoạt động đều phải xuất phát từ nhu cầu thực tiễn của người dân, cũng như thích ứng linh hoạt với điều kiện tự nhiên, xã hội, văn hóa, tập quán của từng địa phương và từng nhóm cộng đồng. Trong giai đoạn thiết kế, cần dự báo trước các rủi ro, từ biến động khí hậu, môi trường đến biến động kinh tế, chính sách, để xây dựng sẵn các kịch bản ứng phó phù hợp.
Về mặt chính sách, ông Huy đề nghị tận dụng tối đa các quy định pháp luật hiện hành, đồng thời khéo léo lồng ghép chương trình, đề án địa phương và ngành nghề, nhằm tạo ra những quyết định chỉ đạo và cơ chế phối hợp chặt chẽ giữa các bên.
“Nhà nước cần hoàn thiện quy định về điều kiện khai thác cho ngư dân bên ngoài vùng được giao đồng quản lý. Đồng thời, Hội cộng đồng ngư dân phải được công nhận tư cách pháp nhân, đủ thẩm quyền mở tài khoản, huy động và quản lý nguồn lực, cũng như tham gia vào quá trình ra quyết định. Chỉ khi đó, trách nhiệm tập thể mới thực sự được nâng cao và tình trạng ‘cha chung không ai khóc’ mới được hóa giải”, ông Huy nhấn mạnh.
Trong mô hình này, ban chấp hành tâm huyết, có uy tín, biết vận động và kết nối ngư dân sẽ là nhân tố quyết định. Cụ thể, tổ chức nội bộ cần được phân cấp rõ ràng, từ các nhóm trưởng, người chỉ huy để điều phối và truyền đạt thông tin đến người dân. Việc phân công đầu mối này không chỉ giúp tăng tính kỷ luật trong hoạt động cộng đồng mà còn là điều kiện cần thiết để triển khai các chương trình tập huấn, nhất là về kỹ năng bảo tồn biển và xử lý tình huống khẩn cấp trên biển.
“Thực tế, các chương trình tập huấn đã được tổ chức rất nhiều, nhưng người dân thường khó tiếp cận do cách truyền đạt chưa phù hợp. Vì vậy, giải pháp phù hợp là ‘trao tay’ nội dung tập huấn cho chính ngư dân địa phương để họ hướng dẫn lẫn nhau, vừa dễ hiểu, vừa sát thực tế. Mô hình này không chỉ phù hợp với đồng quản lý mà hoàn toàn có thể mở rộng ra các chính sách nghề cá khác, giúp tiết kiệm chi phí và nâng cao hiệu quả bền vững”, bà Huyền chia sẻ.
Trong quá trình này, chính quyền địa phương và các tổ chức chính trị - xã hội sẽ sát cánh, đồng hành cùng ngư dân để kịp thời tháo gỡ vướng mắc và thúc đẩy sự phối hợp nhịp nhàng giữa các bên.
Về lâu dài, để mô hình không chỉ tồn tại trong khuôn khổ dự án mà thực sự bám rễ trong đời sống cộng đồng, cần xây dựng và vận hành hiệu quả các quỹ cộng đồng, quỹ sinh kế. Nguồn tài chính cho các quỹ này phải dựa trên nội lực, với cơ chế huy động rõ ràng, minh bạch và ổn định. Đặc biệt, việc luật hóa cơ chế giao quyền quản lý cho cộng đồng là một bước đi có ý nghĩa then chốt, tạo điều kiện để người dân chủ động hơn, tự chịu trách nhiệm và duy trì mô hình một cách bền vững.