Thủy sản đối mặt dịch bệnh, tìm lối ra từ men vi sinh
Theo báo cáo của Cục Thủy sản và Kiểm ngư (Bộ Nông nghiệp và Môi trường), 8 tháng đầu năm 2025, tình hình dịch bệnh thủy sản tại các địa phương ghi nhận diễn biến phức tạp và có xu hướng lan rộng.
Thống kê từ Hệ thống quản lý thông tin dịch bệnh động vật trực tuyến (VAHIS) cho thấy, dịch bệnh đã xuất hiện tại 94 xã thuộc 13 tỉnh, thành phố, với nhiều loại bệnh gây thiệt hại trên diện rộng.
Bệnh đốm trắng là loại phổ biến nhất, xảy ra trên khoảng 1.561 ha, chiếm 3,17% trên tổng diện tích nuôi 49.225 ha tại các địa phương có dịch. Bệnh hoại tử gan tụy cấp ảnh hưởng gần 978 ha tại 77 xã thuộc 10 tỉnh, chiếm 3,26% tổng diện tích nuôi tương ứng. Bệnh hoại tử cơ quan tạo máu và mô tạo máu tuy chỉ xuất hiện tại 2 xã với 30,5 ha diện tích bệnh nhưng có tỷ lệ ảnh hưởng rất cao (23,31%).

Anh Phạm Văn Trường (Phú Thọ) chia sẻ, men vi sinh là bí quyết giữ cho môi trường nước và đáy ao luôn sạch, giúp cá khỏe mạnh, ít bệnh, tăng trưởng nhanh và đồng đều. Ảnh: Hồng Thắm.
Ngoài ra, nhiều bệnh nguy hiểm khác cũng được ghi nhận, như: Bệnh TiLV và gan thận mủ tại TP. Hồ Chí Minh, ảnh hưởng lần lượt 40% và 37,5% số lượng con nuôi. Bệnh trắng gan, trắng mang tại Đồng Tháp chiếm 11,05% diện tích. Bệnh đỏ mang và ký sinh trùng cũng có tỷ lệ cao tại một số xã của Đồng Tháp.
Trước thực tế dịch bệnh tiềm ẩn, nhiều hộ nuôi đã chủ động áp dụng biện pháp phòng ngừa. Điển hình như anh Phạm Văn Trường (Phú Thọ) với diện tích 1,3 ha nuôi cá trắm, chép, rô phi, mỗi năm thu về hàng trăm triệu đồng.
Anh Trường chia sẻ, men vi sinh chính là bí quyết giữ cho môi trường nước và đáy ao luôn sạch, giúp cá khỏe mạnh, ít bệnh, tăng trưởng nhanh và đồng đều.
Sau mỗi vụ, ao được phơi khô, xử lý men vi sinh kỹ càng trước khi thả lứa mới. Trong một vụ nuôi kéo dài 6 - 7 tháng, anh dùng trung bình 14 - 15 lần men vi sinh, chi phí chỉ khoảng 7 - 8 triệu đồng. So với lợi nhuận thu về, khoản đầu tư này rất nhỏ nhưng hiệu quả lớn, vừa giảm dịch bệnh, vừa tiết kiệm thức ăn, vừa nâng cao năng suất. Anh Trường khẳng định: “Men vi sinh là giải pháp đáng giá, giúp nuôi cá an toàn, bền vững”.
Phải lựa chọn những sản phẩm men vi sinh uy tín
Không chỉ người nuôi mà các nhà khoa học cũng đặc biệt lưu ý đến vai trò của men vi sinh. PGS.TS. Trương Đình Hoài, Phó Trưởng khoa Thủy sản - Trưởng nhóm nghiên cứu bệnh thủy sản (Học viện Nông Nghiệp Việt Nam) cho biết, sử dụng chế phẩm vi sinh để phòng bệnh và thay thế dần kháng sinh là xu thế tất yếu.
Men vi sinh có nhiều công dụng như: Xử lý môi trường, giảm thiểu khí độc, hỗ trợ tiêu hóa và phòng chống dịch bệnh. Hiện nay, trên thị trường có rất nhiều loại men vi sinh, từ sản phẩm của doanh nghiệp trong nước, hàng nhập khẩu cho đến men người dân tự ủ từ men gốc.

Chế phẩm vi sinh đang ngày càng được sử dụng rộng rãi trong nuôi trồng thủy sản. Ảnh: Hồng Thắm.
PGS.TS. Trương Đình Hoài cho biết, mặc dù chế phẩm vi sinh ngày càng được ứng dụng rộng rãi trong nuôi trồng thủy sản, nhưng trên thực tế nhiều hộ nuôi vẫn chưa chủ động sử dụng.
Nguyên nhân lớn nhất nằm ở thị trường men vi sinh quá đa dạng, phân khúc sản phẩm phong phú nhưng chất lượng lại không đồng đều. Chính sự chênh lệch này khiến giá bán dao động mạnh, từ vài chục đến vài trăm nghìn đồng mỗi sản phẩm. Nếu người nuôi chọn phải loại giá rẻ, chất lượng thấp thì hiệu quả không cao, từ đó họ vẫn khó bỏ thói quen dùng kháng sinh, hóa chất để điều trị bệnh, thay vì phòng bệnh chủ động bằng chế phẩm vi sinh.
Ngoài ra, chất lượng chủng giống vi sinh dùng trong sản xuất chế phẩm cũng như phương pháp bảo quản trước khi sử dụng cũng có ảnh hưởng rất lớn đến chất lượng sản phẩm khi ứng dụng vào thực tiễn. Trên bao bì, nhiều sản phẩm công bố hàm lượng vi sinh có lợi ở mức rất cao, nhưng khi đưa xuống ao nuôi, khả năng thích nghi và tồn tại lại thấp, dẫn đến hiệu quả không như kỳ vọng.
Từ thực tiễn trên, PGS.TS. Trương Đình Hoài khuyến cáo người nuôi cần trở thành “những người tiêu dùng thông thái”, ưu tiên lựa chọn các chế phẩm vi sinh có nguồn gốc rõ ràng, được sản xuất tại nhà máy đạt chuẩn GMP, ứng dụng công nghệ hiện đại và đã được cơ quan quản lý cho phép lưu hành.
Đồng thời, nên chọn những sản phẩm đã được nghiên cứu, đánh giá, kiểm chứng và chứng minh hiệu quả cao trong điều kiện nuôi trồng thực tế tại Việt Nam.

Người nuôi cần trở thành “những người tiêu dùng thông thái”, ưu tiên lựa chọn các chế phẩm vi sinh có nguồn gốc rõ ràng. Ảnh: HT.
Thực tế cho thấy, không phải sản phẩm vi sinh nhập ngoại nào cũng phù hợp với điều kiện nuôi trồng tại Việt Nam, nhiều loại chỉ hiệu quả với một số đối tượng nuôi hoặc trong những mùa nhất định.
PGS.TS. Trương Đình Hoài dẫn chứng: Các chế phẩm từ những nước ôn đới như Nhật Bản, Hàn Quốc... phát triển tốt trong môi trường nước nhiệt độ thấp, nên thường được dùng cho cá koi, cá chép cảnh hay cá nước lạnh. Trong khi đó, các sản phẩm có chủng giống phân lập từ bản địa đã thích ứng, chọn tạo lại có hiệu quả cao với thực tiễn nhiều loài nuôi, phù hợp với điều kiện khí hậu nóng ẩm tại Việt Nam”.
PGS.TS. Trương Đình Hoài nhấn mạnh, cần tăng cường quản lý chặt chẽ các sản phẩm vi sinh trên thị trường. Việc kiểm nghiệm, đánh giá định kỳ là cần thiết, điều này giúp ổn định thị trường, nâng cao chất lượng chế phẩm, từ đó nâng cao hiệu quả và củng cố niềm tin của người nuôi.
Song song đó, các chế phẩm men vi sinh sử dụng cho nuôi trồng thủy sản cũng cần được nâng cấp về chức năng nhằm đáp ứng ngày càng cao của thực tiễn.
Nếu như trước đây, các chế phẩm vi sinh ở thế hệ thứ nhất chủ yếu được đánh giá thông qua khả năng xử lý môi trường, thế hệ thứ hai được bổ sung thêm khả năng tiêu hóa, giảm khí độc trong ao nuôi, hiện nay, thế hệ thứ ba cần phải có thêm khả năng ức chế mạnh các tác nhân gây bệnh. Đây là yêu cầu cấp thiết trong bối cảnh diễn biến dịch bệnh phức tạp, nhiều mầm bệnh mới nổi, nguy hiểm xuất hiện, tình trạng kháng kháng sinh ngày càng phổ biến.
Thông qua các hoạt động hỗ trợ doanh nghiệp trong đánh giá và cải tiến chất lượng sản phẩm chế phẩm vi sinh, PGS.TS. Trương Đình Hoài cho biết thêm, các doanh nghiệp sản xuất vi sinh đã nhận thấy rõ yêu cầu ngày càng cao của thị trường và thực tiễn nuôi trồng hiện nay của người dân.
“Doanh nghiệp hiện nay cũng đang chạy đua để cải tiến chất lượng sản phẩm thông qua chọn lọc chủng giống, phát triển những chủng men vi sinh hội tụ đủ ba chức năng - xử lý môi trường, giảm khí độc và ức chế sự phát triển của mầm bệnh, nhằm đáp ứng đòi hỏi ngày càng cao của thực tiễn sản xuất, góp phần giảm thiểu việc lạm dụng kháng sinh, hướng tới một nền nuôi trồng thủy sản an toàn, bền vững”, PGS.TS. Trương Đình Hoài nói thêm.