An toàn sinh học là chủ chốt
Theo ông Nguyễn Văn Hữu, Quyền trưởng Phòng quản lý bệnh thủy sản, Cục Thủy sản và Kiểm ngư (Bộ Nông nghiệp và Môi trường), an toàn sinh học đóng vai trò then chốt và là yếu tố "chủ chốt" trong công tác phòng, chống dịch bệnh thủy sản. Nguyên tắc "phòng bệnh là chính" được coi là nền tảng cho việc triển khai đồng bộ các biện pháp an toàn sinh học.

An toàn sinh học đóng vai trò then chốt và là yếu tố "chủ chốt" trong công tác phòng, chống dịch bệnh thủy sản. Ảnh: HT.
Ông Hữu phân tích, an toàn sinh học giúp ngăn chặn mầm bệnh xâm nhập thông qua kiểm soát chặt chẽ nguồn gốc con giống, thức ăn, chất xử lý cải tạo môi trường, nguồn nước cấp, dụng cụ sản xuất, động vật mang mầm bệnh, người ra và cơ sở, đồng thời hạn chế sự lây lan từ bên ngoài.
Bên cạnh đó, việc duy trì vệ sinh, khử trùng, tiêu độc môi trường nuôi và dụng cụ, xử lý chất thải hiệu quả giúp giảm thiểu nguy cơ phát tán mầm bệnh. Không chỉ vậy, an toàn sinh học còn góp phần nâng cao sức đề kháng cho vật nuôi bằng cách tạo dựng môi trường sống lành mạnh, giảm thiểu stress và áp dụng các biện pháp phòng bệnh chủ động.
Hiện nay, các cơ sở nuôi trồng thủy sản trên cả nước đang tuân thủ và áp dụng các biện pháp an toàn sinh học, điều kiện nuôi trồng thủy sản theo hệ thống quy định, hướng dẫn cụ thể.
Trước hết là công tác vệ sinh, khử trùng định kỳ: Khu vực và dụng cụ nuôi trồng thủy sản phải được vệ sinh, khử trùng, tiêu độc và diệt vật chủ trung gian định kỳ và sau mỗi đợt nuôi. Đặc biệt, các cơ sở nuôi ở vùng có dịch cần tăng cường vệ sinh tiêu độc môi trường, khu vực nuôi trồng thủy sản.
Quản lý chất lượng đầu vào là một mắt xích quan trọng. Con giống phải có nguồn gốc rõ ràng, khỏe mạnh, đảm bảo an toàn dịch bệnh. Con giống từ ngoài tỉnh hoặc nhập khẩu phải có Giấy chứng nhận kiểm dịch.
Thức ăn dù là tự chế hoặc tươi sống phải đảm bảo vệ sinh, an toàn dịch bệnh và không gây ô nhiễm môi trường. Nguồn nước cấp phải được xử lý mầm bệnh, kiểm soát các yếu tố môi trường để đảm bảo đủ điều kiện trước khi đưa vào sản xuất.
Song hành với đó là kiểm soát và xử lý chất thải. Chất thải và nước thải trong nuôi trồng thủy sản phải được xử lý đạt yêu cầu theo quy định của pháp luật về bảo vệ môi trường trước khi xả thải.

Con giống phải có nguồn gốc rõ ràng, khỏe mạnh, đảm bảo an toàn dịch bệnh. Ảnh: Hồng Thắm.
Một yêu cầu khác là giám sát và báo cáo. Chủ cơ sở nuôi cần theo dõi sức khỏe vật nuôi hằng ngày để phát hiện sớm trường hợp bệnh hoặc chết, kịp thời báo cáo cho nhân viên thú y xã hoặc cơ quan chuyên ngành. Đồng thời, họ cũng phải giám sát môi trường, ghi chép thông tin và áp dụng các biện pháp xử lý khi các thông số vượt ngưỡng cho phép.
Về ứng dụng kỹ thuật và sử dụng thuốc, cần áp dụng các biện pháp kỹ thuật về nuôi, phòng bệnh, quản lý môi trường theo hướng dẫn của cơ quan chuyên môn, khuyến khích sử dụng chế phẩm sinh học, vaccine được phép lưu hành để phòng bệnh chủ động. Chỉ sử dụng thuốc, hóa chất, được phép lưu hành để phòng trị bệnh khi cần thiết và tuân thủ đúng liều lượng, đồng thời ghi chép quá trình sử dụng.
Cuối cùng, trong thời gian công bố dịch, các cơ sở nuôi chưa bị ảnh hưởng ở vùng có dịch phải hạn chế tối đa việc bổ sung hay thay nước, đồng thời không thả mới hoặc thả bổ sung loài thủy sản mẫn cảm với dịch bệnh đã được công bố, nhằm ngăn chặn nguy cơ bùng phát trên diện rộng.
Những bệnh mới, nguy hiểm có thể được phân tích và cho kết quả khoảng 4 giờ
PGS.TS. Trương Đình Hoài, Phó Trưởng khoa Thủy sản, Trưởng nhóm nghiên cứu bệnh thủy sản (Học viện Nông Nghiệp Việt Nam) cho biết, công nghệ sinh học đã và đang được ứng dụng rộng rãi trong nuôi trồng thủy sản.
Nổi bật là việc áp dụng trong chọn tạo giống thủy sản có đặc tính tốt, sinh trưởng nhanh, tăng khả năng kháng bệnh, góp phần nâng cao năng suất và giảm thiểu rủi ro do dịch bệnh gây ra. Nhiều năm qua, nhiều đề tài, dự án cấp Nhà nước và Bộ đã được đầu tư nghiên cứu giống thuỷ sản, ngoài ra nhiều doanh nghiệp cũng đã chủ động triển khai và ứng dụng vào thực tiễn sản xuất.
Song song với đó, công nghệ sinh học cũng đã được sử dụng ngày càng phổ biến trong giám sát và chẩn đoán nhanh dịch bệnh. Hiện nay, nhiều công nghệ tiên tiến đã được ứng dụng trong chẩn đoán dịch bệnh thủy sản, điển hình như: Công nghệ giải trình tự gen, PCR, real-time PCR (RT-PCR) và ELISA. Đây đều là những thành tựu nổi bật của công nghệ sinh học, góp phần nâng cao độ chính xác và giảm thiểu thời gian xét nghiệm phát hiện mầm bệnh.

Công nghệ sinh học đã và đang được ứng dụng rộng rãi trong nuôi trồng thủy sản. Ảnh: Hồng Thắm.
Tại Việt Nam, ngoài các trung tâm chẩn đoán thú y thủy sản của Cục Chăn nuôi và Thú y (Bộ Nông nghiệp và Môi trường), các viện nghiên cứu thú y, viện nghiên cứu nuôi trồng thủy sản thì nhiều doanh nghiệp, trường đại học cũng đã mạnh dạn đầu tư trang thiết bị hiện đại, mang công nghệ sinh học đến gần hơn với trang trại nuôi, góp phần không nhỏ vào tầm soát, chẩn đoán kịp thời và hỗ trợ người nuôi giảm thiểu thiệt hại khi có dịch bệnh xảy ra. Hiện, các phòng thí nghiệm trong nước cơ bản đã bắt kịp trình độ thế giới, đủ năng lực triển khai các quy trình chẩn đoán tiên tiến.
“Việc áp dụng những công nghệ và thiết bị hiện đại này giúp chẩn đoán dịch bệnh nhanh chóng, rút ngắn đáng kể thời gian so với trước, khẳng định vai trò quan trọng của công nghệ sinh học trong chẩn đoán sớm và phòng chống dịch bệnh thủy sản hiệu quả, kịp thời, góp phần giảm thiểu thiệt hại,” PGS.TS Trương Đình Hoài nhấn mạnh.
Đặc biệt, sự phát triển của các bộ kit và quy trình chẩn đoán nhanh, các thiết bị ngày càng thiết kế nhỏ gọn, có thể lưu động đã mở ra bước tiến mới, cho phép thực hiện trực tiếp tại hiện trường. Nếu như trước đây quá trình gửi mẫu, xét nghiệm, trả kết quả phải mất vài ngày, thì nay nhờ ứng dụng công nghệ sinh học, kết quả chẩn đoán, xét nghiệm chỉ sau vài giờ đã được trả về để kịp thời triển khai các biện pháp phòng trị bệnh tại thực địa.
“Tại Học viện Nông nghiệp Việt Nam, những bệnh thường gặp, tái nổi, nguy hiểm của động vật thủy sản hiện đã và đang được đẩy mạnh nghiên cứu và ứng dụng sử dụng công nghệ sinh học, vì vậy hầu hết có thể phân tích và cho kết quả sớm trong khoảng 4 giờ, giúp người nuôi và doanh nghiệp chủ động triển khai các phương án phòng, trị bệnh nhanh chóng, hiệu quả”, PGS.TS Trương Đình Hoài cho biết thêm.
Có thể thấy, an toàn sinh học và công nghệ sinh học đang song hành như hai "cánh tay" bảo vệ thủy sản. Một bên đặt nền tảng "phòng bệnh là chính", ngăn chặn mầm bệnh từ gốc; bên kia mang đến công cụ đột phá, giúp cho kết quả chẩn đoán nhanh và chính xác chỉ trong vài giờ, tạo điều kiện xử lý kịp thời và phòng chống dịch bệnh hiệu quả. Sự kết hợp này không chỉ giảm thiểu thiệt hại cho người nuôi mà còn góp phần hướng ngành thủy sản tới sản xuất an toàn, bền vững, thích ứng tốt hơn trong bối cảnh biến đổi khí hậu ngày càng gia tăng.