Thú hoang nuôi nhốt chưa được “điểm danh” dịch tễ
Ngay sau vụ 21 con hổ, báo chết do cúm A/H5N1 tại Đồng Nai, giới chuyên gia thú y và kiểm lâm đều thừa nhận: động vật hoang dã nuôi nhốt ở Việt Nam chưa từng được đưa vào bản đồ dịch tễ học quốc gia, dù nhiều loài trong số đó có nguy cơ cao về lây truyền mầm bệnh xuyên loài.

Đến nay, chúng ta vẫn chưa hoàn toàn hiểu hết về động vật hoang dã như những vật nuôi truyền thống. Do đó, hệ thống thú y đôi khi vẫn bị động trong những tình huống dịch bệnh trên các loài này. Ảnh: Lê Bình.
“Chúng ta giám sát dịch bệnh theo nhóm gia cầm, gia súc, thủy sản… Còn các trại nuôi hổ, gấu, khỉ, chim rừng lại dường như không nằm trong mạng lưới. Không có mã vùng dịch, không có định kỳ xét nghiệm và không có bác sĩ thú y chuyên sâu. Họ sống hoàn toàn tách biệt khỏi radar phòng dịch quốc gia”, PGS.TS Lê Thanh Hiền, trường Đại học Nông lâm TP. HCM bày tỏ.
Theo thống kê từ Cục Lâm nghiệp và Kiểm lâm, đến nay, Việt Nam có khoảng 12.000 cơ sở, hộ gia đình nuôi động vật hoang dã, trong đó có gần 80 trung tâm cứu hộ. Tuy nhiên, hệ thống thú y và kiểm lâm vẫn chưa chặt chẽ trong công tác giám sát tình trạng sức khỏe các loài hoang dã này. Hiện cũng chưa có ngân sách dành riêng cho công tác phòng bệnh trên động vật hoang dã. Nhiều chuyên gia thú y cùng nhận định: Đây là lỗ hổng thể chế nghiêm trọng!
Không chỉ vậy, nhiều loài hoang dã có đặc điểm sinh học rất khác biệt. Đây là điều mà ngành thú y truyền thống không đủ nhân lực và chuyên môn để tiếp cận. Cơ sở cứu hộ, vườn thú, trại tư nhân thường vận hành theo kinh nghiệm hoặc hợp tác phi chính thức với các tổ chức phi chính phủ.
Anh Nguyễn Phước Quý tại xã Phú Lâm, tỉnh Đồng Nai hiện đang nuôi 100 con chồn hương tại nhà khoảng 4 năm nay. Mặc dù anh Quý được dự án “Chiến lược phòng ngừa tác nhân lây truyền dịch bệnh từ động vật sang người” (STOP Spillover) hỗ trợ về mặt chuyên môn nhưng quá trình nuôi chồn hương, vấn đề sức khỏe vật nuôi khiến anh luôn lúng túng.
“Mặc dù chồn hương ít bệnh thật nhưng không phải tuyệt đối. Đặc biệt là khi chồn hương lười ăn, không hoạt bát khiến mình rất lo. Về thuốc điều trị thì mình không mua được riêng cho chồn hương mà nhiều khi phải lấy thuốc của người để điều trị cho chồn hương. Mỗi khi có một con bệnh là mình hồi hộp, chỉ sợ nó lây cho cả đàn”, anh Quý chia sẻ.
Đây cũng là tình trạng của Công ty TNHH Khu du lịch Sinh thái Vườn Xoài - nơi xảy ra vụ chết 20 con hổ trước đây. Ông Ngô Văn Sang, Giám đốc công ty cho biết: “Khi hổ, báo có dấu hiệu bất thường thì lực lượng thú y của chúng tôi cũng chỉ điều trị theo kinh nghiệm, phỏng đoán và nâng cao thể trạng của động vật hoang dã. Hoặc có khi muốn chẩn đoán chuyên sâu cho động vật hoang dã cũng không nơi nào có thiết bị xét nghiệm chuyên biệt. Ngay cả khi phát hiện virus hay ký sinh trùng nguy hiểm, cũng không biết báo cho ai, xử lý theo tuyến nào”.

Động vật hoang dã dường như đang bị "bỏ quên" trong chiến lược Một Sức khỏe. Tuy nhiên, đây chính là đối tượng có nguy cơ phát tán và lây lan nhiều bệnh mới, nguy hiểm nếu như không được kiểm soát tốt. Ảnh: Lê Bình.
“Một sức khỏe” nhưng chưa có sự phối hợp
Trong 10 năm qua, Việt Nam đã nhiều lần khẳng định cam kết với chiến lược “Một Sức khỏe” (One Health) - mô hình kết nối y tế con người, y tế động vật và bảo vệ môi trường nhằm kiểm soát dịch bệnh xuyên loài. Tuy nhiên, việc đưa động vật hoang dã vào trung tâm mô hình này dường như chưa có cơ chế vận hành cụ thể.
Chiến lược Một Sức khỏe giai đoạn 2021-2025, do Bộ Y tế, Bộ NN-PTNT và Bộ TN-MT (cũ) phối hợp ban hành, đã xác định động vật hoang dã là nguồn nguy cơ chính. Tuy nhiên, nhiều nội dung như thiết lập mạng lưới giám sát động vật hoang dã, đào tạo nhân lực thú y chuyên biệt, xây dựng hệ thống cảnh báo dịch từ rừng… vẫn chưa được triển khai sâu rộng.
Ông Thibault Ledecq, Giám đốc Bảo tồn, WWF-Việt Nam cho rằng, cam kết của Việt Nam đối với sáng kiến Một Sức khỏe là rất mạnh mẽ, đặc biệt trong lĩnh vực kiểm soát bệnh từ động vật sang vật nuôi. Tuy nhiên việc áp dụng chương trình này cho động vật hoang dã vẫn còn nhiều hạn chế.
“Tại nhiều cơ sở nuôi nhốt động vật hoang dã (bao gồm các trại thương mại, vườn thú, trung tâm cứu hộ), các biện pháp như tiêm vaccine hay xét nghiệm bệnh định kỳ chưa được thực hiện đầy đủ. Chưa kể, trình độ chuyên môn của đội ngũ bác sĩ thú y tại những nơi này và trong hệ thống công lập cũng chưa ngang tầm với hệ thống thú y ngành chăn nuôi. Chúng tôi khuyến nghị Nhà nước tăng cường quan tâm đến chương trình của động vật hoang dã để sáng kiến Một Sức khoẻ được hoàn thiện hơn”, ông Thibault Ledecq kiến nghị.

Động vật hoang dã cần được quan tâm nhiều hơn, xây dựng dữ liệu và kế hoạch kiểm soát dịch bệnh nếu không muốn ngành thú y và kiểm soát dịch bệnh trên người bị... vỡ trận. Ảnh: Lê Bình.
Vấn đề này không chỉ xảy ra tại riêng Việt Nam. Báo cáo của Liên minh Động vật hoang dã toàn cầu (Global Wildlife Health) chỉ ra rằng: hơn 70% quốc gia có rừng nhiệt đới chưa tích hợp dữ liệu về bệnh ĐVHD vào hệ thống y tế công cộng. Tuy nhiên, nhiều nước đã bắt đầu thay đổi.
Rwanda có mạng lưới theo dõi sức khỏe khỉ đột núi, kết hợp giữa bác sĩ thú y - kiểm lâm và cộng đồng địa phương. Thái Lan và Malaysia đang phối hợp cùng tổ chức quốc tế để theo dõi dịch cúm và corona trên chim hoang dã và dơi trong khu rừng. Tại Việt Nam, một số chương trình cũng đang được triển khai.
Nhu cầu theo dõi sức khỏe của các loài hoang dã ngày càng cấp thiết, không chỉ vì lý do bảo tồn, mà còn vì an toàn sức khỏe cộng đồng. Dịch cúm A/H5N1 từng được ghi nhận ở gấu ở Trung Quốc, sư tử ở Ấn Độ, chồn ở châu Âu… Hệ thống giám sát phải đi trước một bước nếu không muốn tiếp tục bị động. Vụ hổ chết ở Đồng Nai chỉ là một ví dụ. Phía sau nó là một hệ thống chưa được thiết kế để bảo vệ những cá thể đặc biệt và cũng chưa đủ nhận thức để xem sức khỏe động vật hoang dã là một phần của an ninh y tế quốc gia.