“Khoảng trống” trong hệ thống thú y
Từ tháng 8 - 16/9/2024, tại Vườn thú Mỹ Quỳnh (Long An cũ) đã có 30 con hổ và sư tử bị chết. Cũng tại Đồng Nai, 20 con hổ và 1 con báo tại Khu du lịch Vườn Xoài cũng ghi nhận bị chết bất thường.

Lực lượng thú y tỉnh Đồng Nai lấy mẫu phân của động vật để làm xét nghiệm sau sự cố 21 cá thể hổ và 1 con báo bị chết vì cúm A/H5N1. Ảnh: Lê Bình.
Kết quả xét nghiệm cho thấy, mẫu bệnh phẩm của loài hổ được lấy mẫu tại vườn thú dương tính cúm A/H5N1. Như vậy, thời điểm ấy có tới 51 con hổ, báo và sư tử chết do nhiễm virus cúm A/H5N1, một chủng virus gia cầm độc lực cao.
Mặc dù bác sĩ thú y tại các vườn thú có theo dõi chặt về mặt dịch tễ, các biện pháp giám sát chủ động và tiêm phòng, cách ly sinh học nhưng diễn biến xảy ra quá nhanh. Chính ông Nguyễn Trường Giang, Chi cục trưởng Chi cục Chăn nuôi và Thủy sản Đồng Nai thừa nhận: “Vụ việc diễn ra quá nhanh và không tưởng, bởi công tác kiểm soát dịch bệnh vẫn khá tốt. Tuy nhiên, ngay sau đó Chi cục đã cách ly, khoanh vùng và giám sát chặt, không để dịch có nguy cơ lan rộng”.
Hiện, tính trên phạm vi cả nước, có khoảng gần 12.000 cơ sở nuôi động vật hoang dã với hơn 2,5 triệu cá thể, 300 loài được nuôi. Tuy nhiên, hộ gia đình, cá nhân chiếm 90% số cơ sở nuôi động vật hoang dã. Điều đáng nói, kiến thức phòng chống dịch bệnh của người nuôi rất sơ sài.
“Động vật hoang dã nuôi nhốt vẫn bị xem là "khu vực ngoài vùng phủ sóng" của ngành thú y. Việc giám sát, phòng bệnh, báo cáo dịch đều không bắt buộc như với gia súc, gia cầm. Đó là một kẽ hở lớn nếu nhìn từ góc độ y tế công cộng”, PGS.TS Lê Thanh Hiền, Trưởng Bộ môn Bệnh truyền nhiễm và thú y cộng đồng, Khoa Chăn nuôi Thú y, Trường Đại học Nông lâm TP. HCM nhận định.
Sự lúng túng trong xử lý hổ, báo chết tại Đồng Nai và Long An (cũ) cho thấy không có hướng dẫn chuyên môn rõ ràng về phòng, chống bệnh truyền nhiễm trên động vật hoang dã nuôi nhốt. Trong khi đó, các loại vaccine hiện nay đều được thiết kế cho vật nuôi truyền thống, rất ít chế phẩm phù hợp cho các loài như hổ, gấu, khỉ,…
PGS.TS Lê Quang Thông, Trưởng khoa Chăn nuôi Thú y, Trường Đại học Nông lâm TP. HCM cũng thừa nhận: “Chúng ta chưa hiểu hết về động vật hoang dã như những vật nuôi truyền thống. Nhiều bệnh lý trên động vật hoang dã còn khá mới, chúng tôi phải trao đổi kinh nghiệm với bạn bè quốc tế. Nhiều ca bệnh, chúng ta chỉ có thể điều trị theo triệu chứng và kinh nghiệm. Thiếu thiết bị xét nghiệm, thiếu thuốc phù hợp, càng không có vaccine”.
Hơn nữa, sự thiếu thống nhất giữa các bên liên quan càng làm vấn đề thêm phức tạp. Trong đó, Kiểm lâm chịu trách nhiệm về nguồn gốc - bảo tồn, thú y lo dịch bệnh vật nuôi và ngành y tế chưa thực sự chủ động trước mối nguy lây bệnh từ động vật hoang dã sang người. Người nuôi cũng không đủ chuyên môn, không được đào tạo và thường thiếu kinh phí. Trong khi đó, dịch bệnh không phân biệt ranh giới quản lý!

Mối nguy lây bệnh từ động vật hoang dã sang người được đánh giá ngày càng mong manh và bộc lộ nhiều khoảng trống miễn dịch. Ảnh: Lê Bình.
Nguy cơ dịch bệnh từ động vật hoang dã ở rất gần
Các chuyên gia nhiều lần cảnh báo rằng, nếu tiếp tục để động vật hoang dã đứng ngoài hệ thống giám sát, Việt Nam sẽ phải đối mặt với những nguy cơ dịch bệnh mới khó lường, không chỉ đe dọa động vật, mà cả con người.
Theo báo cáo của Tổ chức Thú y Thế giới (WOAH) năm 2023, trên 70% dịch bệnh truyền nhiễm mới nổi ở người có nguồn gốc từ động vật, phần lớn từ động vật hoang dã. Cúm A, SARS, MERS, Henipavirus, Corona… đều từng được ghi nhận ở các loài như dơi, chim di cư, tê tê, gặm nhấm.
Tại Việt Nam, một nghiên cứu hợp tác giữa Đại học Oxford và Viện Pasteur TP. HCM công bố năm 2022 cho thấy: tại một số điểm thu mua và nuôi nhốt động vật hoang dã ở miền Nam, tỷ lệ phát hiện virus corona liên quan đến dơi và các loài gặm nhấm ở mức cao trong mẫu bệnh phẩm.
“Chúng ta mới giám sát được dịch trên gia súc, gia cầm, còn động vật hoang dã, cả trong rừng và trong trại nuôi thì vẫn còn thiếu. Một khi virus xuất hiện trong các trại nuôi nhốt, chỉ cần một mắt xích lỏng lẻo là dịch có thể lan sang vật nuôi, rồi từ đó tiếp cận con người”, PGS.TS. Lê Thanh Hiền chia sẻ.
Một điểm đáng chú ý khác: nhiều cơ sở nuôi động vật hoang dã nằm gần khu dân cư hoặc các trang trại chăn nuôi. Cúm A/H5N1 là bệnh có thể lây từ gia cầm hoang sang thú ăn thịt, như trường hợp ở Đồng Nai. Nếu không có cơ chế cảnh báo dịch giữa thú y - kiểm lâm - y tế và chính quyền địa phương, nguy cơ hình thành ổ dịch mới là điều hoàn toàn có thể xảy ra.

Động vật hoang dã nuôi nhốt vẫn là đối tượng dễ bị tổn thương trước nhiều nguy cơ dịch bệnh do chưa được quan tâm đúng mức. Ảnh: Lê Bình.
Trong khu vực, nhiều quốc gia như Thái Lan, Indonesia… đã triển khai các mô hình lồng ghép giám sát dịch bệnh trên động vật hoang dã vào hệ thống y tế công cộng. Ở Việt Nam, dù chiến lược “Một sức khỏe” đã được đề cập từ nhiều năm nay, nhưng đến nay phần lớn hoạt động vẫn tập trung vào y tế con người và chăn nuôi công nghiệp. Động vật hoang dã vẫn là mắt xích yếu nhất trong chuỗi phòng chống dịch bệnh xuyên loài.
Vụ hổ chết vì cúm A/H5N1 không chỉ là một sự cố cá biệt. Kể từ năm 2024, virus H5N1 đã lan rộng trong các quần thể động vật hoang dã như chim cánh cụt, chim di cư và bò nuôi nhốt tại Mỹ. Sự việc này cho thấy đây là một xu hướng ngày càng gia tăng.
Tuy nhiên, tại Việt Nam, nó là biểu hiện cụ thể của một hệ thống còn nhiều khoảng trống, thiếu kết nối và thiếu đầu tư cho y tế động vật hoang dã. Trong bối cảnh biến đổi khí hậu, đô thị hóa và nhu cầu tiêu dùng tăng cao, các loài hoang dã đang sống gần con người hơn bao giờ hết và việc bỏ qua sức khỏe của chúng chính là bỏ ngỏ an toàn của chính chúng ta.
“Muốn ngăn dịch từ gốc, phải giám sát ngay từ nơi virus có thể xuất hiện. Và trong hầu hết các trường hợp, đó chính là động vật hoang dã. Hồi chuông cảnh báo đã vang lên, vấn đề là chúng ta có nghe thấy và hành động kịp thời hay không?". PGS.TS Lê Quang Thông, Trưởng khoa Chăn nuôi Thú y, Trường Đại học Nông lâm TP. HCM cảnh báo.