Bệnh phổ biến ở gà con, thiệt hại âm ỉ
Bệnh rù gà (Infectious Bursal Disease - IBD) hay còn gọi là bệnh Gumboro, do virus Birnaviridae gây ra, có khả năng kháng cao với các chất sát trùng thông thường và tồn tại lâu ngoài môi trường. Virus chủ yếu tấn công túi Fabricius vốn là cơ quan miễn dịch đặc thù của gà, khiến khả năng sản sinh kháng thể giảm mạnh.
Tại Việt Nam, bệnh thường xuất hiện ở gà từ 3 - 6 tuần tuổi, lứa tuổi có hệ miễn dịch chưa hoàn chỉnh. Thường, tỷ lệ mắc trung bình là 45% và tỷ lệ chết trung bình là 4,81% trong các đàn gà dương tính với virus IBD. Nhưng gà sống sót lại bị còi cọc, chậm lớn, hiệu quả tiêm vaccine các bệnh khác suy giảm rõ rệt. Điều này khiến thiệt hại kinh tế do rù gà gây ra không chỉ nằm ở số gà chết mà còn ở chi phí phòng trị tăng cao và năng suất chăn nuôi giảm sút.

Gà từ 3 - 6 tuần tuổi thường dễ nhiễm nhất, với các triệu chứng như ủ rũ, xù lông, tiêu chảy, và các tổn thương đặc trưng như túi Fabricius sưng to hoặc xuất huyết. Ảnh: Lê Bình.
Trên thực tế, các ổ dịch bệnh Gumboro rù gà thường diễn biến theo hình thức bùng phát cục bộ, lan nhanh qua phân, nước uống và dụng cụ chăn nuôi. Triệu chứng thường gặp là gà xù lông, kém ăn, tiêu chảy trắng lẫn nhầy, mất nước, run rẩy. Mổ khám thấy túi Fabricius sưng to, có dịch, sau đó teo nhỏ; thận sưng, xuất huyết cơ đùi và ngực.
“Nguy hiểm nhất là rù gà làm suy giảm miễn dịch, khiến đàn gà dễ đồng nhiễm với E.coli, tụ huyết trùng hoặc Newcastle. Khi đó, tỷ lệ chết có thể tăng vọt, gây tổn thất nặng nề”, Thạc sĩ Nguyễn Thị Thủy Tiên, Trung tâm Nghiên cứu và Phát triển Chăn nuôi Gia cầm Vigova cho biết.
Phòng bệnh là then chốt
Hiện chưa có thuốc điều trị đặc hiệu cho rù gà. Biện pháp hiệu quả nhất vẫn là phòng bệnh, trong đó tiêm vaccine giữ vai trò quyết định.
Các loại vaccine sống nhược độc và vaccine vô hoạt đều đang được sử dụng phổ biến ở Việt Nam. Lịch tiêm thường bắt đầu từ 7-14 ngày tuổi, sau đó nhắc lại ở 21-28 ngày tuổi, tùy vào khuyến cáo của cơ quan thú y địa phương. “Tiêm đúng lịch, đúng liều và bảo quản vaccine đúng quy trình là yếu tố quyết định khả năng tạo miễn dịch”, Thạc sĩ Thủy Tiên lưu ý.
Bên cạnh vaccine, an toàn sinh học vẫn là “hàng rào” ngăn chặn sự xâm nhập của virus. Chuồng trại phải luôn khô ráo, mật độ nuôi vừa phải, vệ sinh sát trùng thường xuyên. Người và phương tiện ra vào trại phải được kiểm soát, hạn chế việc mang mầm bệnh từ nơi khác về.

Đảm bảo vệ sinh chuồng trại, kiểm soát nguy cơ lây lan virus qua thức ăn và nước uống giúp gia cầm phòng bệnh hiệu quả. Ảnh: Lê Bình.
Ngoài ra, cần quản lý dinh dưỡng hợp lý giúp nâng cao sức đề kháng cho đàn gà. Bổ sung vitamin A, E, C và các khoáng chất giúp giảm stress và tăng cường hệ miễn dịch. Khi gà có dấu hiệu bệnh, có thể dùng điện giải, men tiêu hóa để hạn chế mất nước và hỗ trợ tiêu hóa, song không thể thay thế biện pháp phòng ngừa chủ động bằng vaccine.
Rù gà không phải bệnh mới, nhưng mức độ phổ biến và khả năng gây suy giảm miễn dịch khiến nó trở thành mối lo thường trực với ngành chăn nuôi. Một đàn gà mắc rù gà thường khó đạt năng suất tối ưu, dễ trở thành “điểm yếu” trước các bệnh truyền nhiễm khác.
Do vậy, cùng với chương trình tiêm phòng bắt buộc, người chăn nuôi cần tuân thủ nghiêm an toàn sinh học, tăng cường dinh dưỡng, đồng thời giám sát chặt chẽ đàn gà trong giai đoạn 3-6 tuần tuổi, là giai đoạn dễ nhiễm bệnh nhất.
Chỉ khi phối hợp đồng bộ giữa phòng vaccine, quản lý chuồng trại và kiểm soát dịch bệnh, ngành chăn nuôi mới có thể hạn chế thiệt hại âm ỉ mà rù gà gây ra, bảo đảm hiệu quả kinh tế và phát triển bền vững.