6 nguyên nhân dẫn đến dịch bệnh phức tạp
PGS.TS. Trương Đình Hoài, Phó Trưởng khoa Thủy sản - Trưởng nhóm nghiên cứu bệnh thủy sản (Học viện Nông Nghiệp Việt Nam) cho hay, hiện nay, dịch bệnh trong nuôi trồng thủy sản nói chung đang diễn biến rất phức tạp, trở thành một trong những rào cản lớn đối với sự phát triển ổn định của ngành. Có nhiều nguyên nhân dẫn đến tình trạng dịch bệnh phức tạp hiện nay.

PGS.TS. Trương Đình Hoài, Phó Trưởng khoa Thủy sản - Trưởng nhóm nghiên cứu bệnh thủy sản, Học viện Nông Nghiệp Việt Nam. Ành: Duy Học.
Thứ nhất, ngành nuôi trồng thủy sản của Việt Nam đa dạng đối tượng nuôi, như: Giáp xác (tôm, cua), cá (nước lạnh, cá nước ngọt, cá biển), nhuyễn thể (ốc hương, hàu, ngao….). Trong mỗi môi trường nuôi lại đa dạng loài, mô hình nuôi, như: Nuôi hở (lồng bè trên sông hồ, ngoài biển), nuôi ao, nuôi ghép… Mỗi loài nuôi có những bệnh chung, nhưng cũng có bệnh đặc thù riêng. Những bệnh mới, nguy hiểm xuất hiện ngày càng nhiều. Sự đa dạng về đối tượng, mô hình nuôi, nuôi trong điều kiện môi trường khác nhau khiến công tác quản lý, giám sát dịch bệnh gặp nhiều khó khăn.
Thứ hai, lực lượng chuyên trách quản lý dịch bệnh thủy sản có chuyên môn sâu về bệnh học còn khá mỏng, khiến công tác kiểm soát thiếu tính đồng bộ. Trong khi đó, số lượng đối tượng nuôi lại quá lớn, dẫn đến việc giám sát và phòng chống dịch bệnh chưa bao phủ được hết các vùng, đặc biệt là vùng xa trung tâm, nuôi biển xa bờ. Vì vậy, hiệu quả quản lý và hỗ trợ phòng bệnh vẫn chưa đáp ứng được kỳ vọng của người nuôi.
Thứ ba, công tác giống và chất lượng con giống còn nhiều bất cập. Những năm qua, dù đã có nhiều nỗ lực trong công tác chọn tạo giống thủy sản nhưng chúng ta vẫn chưa tự chủ được hoàn toàn về nguồn giống để đáp ứng đầy đủ nhu cầu sản xuất.
"Rất tiếc, số lượng nhà khoa học theo đuổi và tâm huyết với lĩnh vực bệnh học thủy sản chỉ đếm được trên đầu ngón tay", PGS.TS. Trương Đình Hoài, Phó Trưởng khoa Thủy sản - Trưởng nhóm nghiên cứu bệnh thủy sản (Học viện Nông Nghiệp Việt Nam) nói.
Bên cạnh đó, các giống có khả năng kháng bệnh cũng rất ít. Nguồn giống nhập khẩu có các ưu điểm như sinh trưởng nhanh, cho hiệu quả kinh tế, nhưng cũng tiềm ẩn những nguy cơ nhất định, đặc biệt là các bệnh truyền lây xuyên biên giới có thể xâm nhập nếu không kiểm soát tốt.
Ngoài ra, hiện tượng thoái hóa giống sau nhiều năm cũng ngày càng rõ với một số loài nuôi. Ví dụ, trước đây chúng ta có tôm giống kháng bệnh rất tốt, nhưng sau khoảng10 năm, khả năng kháng bệnh cũng dần suy giảm. Trong khi đó, để chọn tạo được giống kháng bệnh bài bản phải hỏi thời gian dài (5 - 10 năm) mới cho kết quả, chi phí nghiên cứu lớn. Vì vậy, chọn lọc và phát triển giống kháng bệnh vẫn chưa đáp ứng yêu cầu phát triển của ngành.
Thứ tư, ô nhiễm môi trường, biến đổi khí hậu đang trở thành vấn đề lớn, ảnh hưởng đến sự phát triển của ngành thủy sản. Nhiều mô hình nuôi thâm canh, siêu thâm canh mật độ cao nhưng công tác xử lý môi trường chưa tương xứng đã làm chất lượng nước và môi trường suy giảm. Cộng thêm biến đổi khí hậu ngày càng khắc nghiệt, hậu quả là sức đề kháng của vật nuôi giảm, dịch bệnh phức tạp và khó kiểm soát hơn.
Thứ năm, nhận thức của người dân về phòng bệnh chủ động còn hạn chế. Trong nuôi trồng thủy sản, nguyên tắc cần đặt lên hàng đầu là “phòng bệnh là chính, điều trị bệnh khi cần thiết”. Do tôm, cá sống trong môi trường nước - nơi các yếu tố thủy lý, thủy hóa luôn biến động và khó quan sát nên dịch bệnh thường được phát hiện muộn, việc điều trị gặp nhiều khó khăn và hiệu quả thấp. Chính vì vậy, nếu không chủ động phòng bệnh thì người nuôi gần như nắm phần thua ngay từ đầu.
Thứ sáu, tình trạng lạm dụng thuốc, hóa chất trong quá trình chăm sóc, phòng trị bệnh đã và đang gây ra tình trạng ô nhiễm môi trường, kháng thuốc, khiến việc điều trị ngày càng khó khăn và hiệu quả phòng trị bệnh thấp.

Những năm qua, dù đã có nhiều nỗ lực trong công tác chọn tạo giống thủy sản nhưng chúng ta vẫn chưa tự chủ được hoàn toàn về nguồn giống để đáp ứng đầy đủ nhu cầu sản xuất. Ảnh: Hồng Thắm.
Nhà khoa học nghiên cứu về bệnh thủy sản chỉ đếm được trên đầu ngón tay
Theo PGS.TS. Trương Đình Hoài, không chỉ chịu tác động từ những nguyên nhân trên, ngành thủy sản còn đang thiếu nghiêm trọng nguồn nhân lực và công cụ phục vụ quản lý dịch bệnh. Lực lượng cán bộ có chuyên môn thủy sản vốn đã ít, người có kiến thức chuyên sâu về bệnh thủy sản lại càng hiếm. Thực trạng này đi ngược với vai trò, vị thế quan trọng của ngành thủy sản trong nông nghiệp cũng như trong kim ngạch xuất khẩu.
Mặt khác, sự đa dạng của các loại hình và mô hình nuôi thủy sản trải rộng trên cả nước khiến cơ quan quản lý, nhà khoa học và đội ngũ cán bộ chuyên môn gặp nhiều khó khăn, khó có thể bao quát toàn diện tình hình dịch bệnh ngoài thực địa.
Thực tế dịch bệnh ngoài ao, lồng, bè rất phức tạp nhưng cơ quan quản lý khó nắm bắt kịp thời do thiếu công cụ hỗ trợ, cơ chế báo cáo dịch bệnh. Vấn đề hiện nay là hệ thống giám sát, cảnh báo hoặc ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý dịch bệnh thủy sản chưa đáp ứng được yêu cầu thực tiễn.
Bên cạnh đó, sự tương tác và hỗ trợ từ cơ quan quản lý chuyên môn đối với người nuôi khi dịch bệnh bùng phát vẫn chưa đáp ứng được kỳ vọng. Việc phản hồi chậm hoặc lực lượng chuyên môn quá mỏng khiến công tác hỗ trợ gặp nhiều hạn chế. Vì vậy, ngoài việc tăng cường lực lượng chuyên trách trực tiếp hỗ trợ tại các vùng nuôi trọng điểm, cần sớm xây dựng lộ trình thiết lập hệ thống giám sát, cảnh báo và phần mềm báo cáo dịch bệnh tiện lợi, dễ sử dụng hơn so với hiện nay.
Song song với đó, cần đặc biệt chú trọng đầu tư các nghiên cứu về bệnh và dịch tễ bệnh. Lĩnh vực bệnh thủy sản là một góc nhỏ của ngành, nhưng lại có vai trò quan trọng trong sự thành công của một vụ nuôi, ảnh hưởng lớn đến năng suất và hiệu quả. Rất tiếc, số lượng nhà khoa học theo đuổi và tâm huyết với lĩnh vực này chỉ đếm được trên đầu ngón tay. Chỉ những người thật sự tâm huyết, sẵn sàng đối diện khó khăn mới kiên trì theo đuổi.

Cần đặc biệt chú trọng đầu tư các nghiên cứu về bệnh và dịch tễ bệnh. Ảnh: Hồng Thắm.
Ngoài ra, cần quan tâm đầu tư nghiên cứu, biên soạn và phổ biến tài liệu hướng dẫn phòng bệnh chủ động và cụ thể cho các loài nuôi phổ biến cho người dân, tăng cường hoạt động tập huấn của cơ quan khuyến nông, khuyến ngư hoặc quản lý thủy sản địa phương về phòng bệnh và quản lý sức khỏe thủy sản.
PGS.TS. Trương Đình Hoài nhấn mạnh: “Thực tế cho thấy, nhiều hộ nuôi lâu năm vẫn còn bảo thủ trong cách phòng trị bệnh, chưa đặt niềm tin vào khoa học. Vì vậy, thời gian tới cần đẩy mạnh công tác tuyên truyền để bà con hiểu rõ tầm quan trọng của phòng bệnh chủ động. Tuy nhiên, cách tuyên truyền phải đổi mới, tránh lối tiếp cận hàn lâm, khô cứng, mà cần dựa trên “người thật, việc thật”, thông qua những mô hình điển hình đã chứng minh hiệu quả rõ rệt về năng suất và giá trị kinh tế”.
Để làm được điều này, cần có sự phối hợp đồng bộ giữa các hiệp hội, cơ quan quản lý, doanh nghiệp, người nuôi và nhà khoa học. Chỉ khi liên kết chặt chẽ, việc xây dựng và nhân rộng mô hình phòng chống dịch bệnh hiệu quả, mở ra hướng đi bền vững cho thủy sản Việt Nam.