Lưu giữ hơn 32.000 mẫu nguồn gen thực vật
Hệ thống bảo tồn tài nguyên di truyền thực vật của Việt Nam sau gần một thập kỷ vận hành đang chuyển đổi từ giai đoạn “gom và giữ” sang “giữ để dùng”.
Báo cáo của Trung tâm Tài nguyên thực vật (Viện Khoa học Nông nghiệp Việt Nam) tại hội thảo “Đánh giá, bảo tồn nguồn gen giai đoạn 2016-2025 và định hướng 2026-2030” ngày 23/10 cho biết, hiện nay Ngân hàng gen Quốc gia đang lưu giữ hơn 32.000 mẫu nguồn gen thuộc hơn 200 loài cây trồng khác nhau. Các mẫu này được bảo quản dưới ba hình thức: ngân hàng hạt giống; lưu giữ tại đồng ruộng; và lưu giữ trong ống nghiệm (in-vitro), bảo quản các giống cây sinh sản vô tính trong môi trường nhân tạo vô trùng, giúp duy trì sự sống của mẫu vật mà không cần trồng ngoài tự nhiên.
Hội thảo “Đánh giá, bảo tồn nguồn gen giai đoạn 2016-2025 và định hướng 2026-2030” được tổ chức hai ngày, với phiên tham luận chuyên đề và chương trình thực địa tại Cúc Phương. Ảnh: Linh Linh.
Theo bà Vũ Linh Chi, đại diện Trung tâm, đây là kết quả của hàng chục năm thu thập, đánh giá và nhân trẻ hóa nguồn gen trong điều kiện còn nhiều khó khăn. Nhiều giống cây bản địa quý như lúa Nếp Bản Luốc (Hà Giang), Khẩu Mường Lò (Lai Châu) hay Tẻ đỏ Hà Nhì (Điện Biên) đã được khai thác, phát triển thành sản phẩm thương mại, chứng minh rằng bảo tồn nguồn gen không chỉ để lưu trữ, mà còn phục vụ trực tiếp cho phát triển kinh tế nông nghiệp.
Tuy nhiên, bà Chi cho biết công tác bảo tồn vẫn đối mặt với nhiều trở ngại như cơ sở vật chất của hệ thống lưu giữ đã xuống cấp; nguồn kinh phí hằng năm chưa đáp ứng nhu cầu bảo quản lâu dài; việc đánh giá, tư liệu hóa và số hóa dữ liệu còn phân tán... Trước thực trạng đó, Trung tâm Tài nguyên thực vật kiến nghị Bộ Nông nghiệp và Môi trường tiếp tục đầu tư nâng cấp Ngân hàng gen Quốc gia, áp dụng tự động hóa và trí tuệ nhân tạo (AI) trong thu thập, đánh giá và tư liệu hóa nguồn gen. Bà Chi nhấn mạnh, việc đầu tư hạ tầng và dữ liệu cho Ngân hàng gen không chỉ nhằm lưu giữ lâu dài, mà còn tạo tiền đề để hình thành các thiết chế bảo tồn quy mô quốc gia trong tương lai.
Mở rộng hệ thống bảo tồn với Vườn Thực vật Quốc gia
PGS.TS. Bùi Thế Đồi, Phó Hiệu trưởng Trường Đại học Lâm nghiệp, cho rằng cần tiến thêm một bước bằng việc xây dựng Vườn Thực vật Quốc gia, không chỉ giúp tạo thêm một không gian trồng cây, mà là bước phát triển cần thiết để mở rộng hệ thống bảo tồn, từ ngân hàng gen lưu giữ lạnh đến không gian bảo tồn sống, phục vụ nghiên cứu, giáo dục và quảng bá đa dạng sinh học.
Theo Tiêu chuẩn quốc gia TCVN 13530:2022, Vườn Thực vật Quốc gia phải gắn với cơ sở đào tạo và nghiên cứu khoa học, có diện tích tối thiểu 50 ha và bộ sưu tập ít nhất 700 loài thực vật, trong đó 500 loài là cây gỗ. Địa điểm được đề xuất xây dựng là khu rừng thực nghiệm Núi Luốt (Xuân Mai - Hà Nội, Lương Sơn – Hòa Bình), nơi đã phục hồi từ vùng đất trống đồi trọc thành rừng đa tầng sinh học phong phú, với hơn 520 loài thực vật có mạch, trong đó có 52 loài quý hiếm.
PGS.TS. Bùi Thế Đồi, Phó Hiệu trưởng Trường Đại học Lâm nghiệp. Ảnh: Linh Linh.
PGS.TS. Đồi cho biết, Vườn Thực vật Quốc gia sẽ được thiết kế như một thiết chế khoa học đa chức năng, vừa làm nhiệm vụ bảo tồn và nghiên cứu, vừa phục vụ giáo dục, du lịch sinh thái và quảng bá đa dạng sinh học. Giai đoạn 2026-2030, Trường Đại học Lâm nghiệp đặt mục tiêu hoàn thiện các hạng mục cốt lõi như nhà kính bảo tồn, phòng thí nghiệm gen, trung tâm điều hành và khu giáo dục thực nghiệm, đồng thời xây dựng cơ sở dữ liệu số để kết nối với Mạng lưới Vườn Thực vật châu Á (BGCI).
Các chuyên gia nhận định, nếu Ngân hàng gen là “trí nhớ di truyền” của quốc gia, thì Vườn Thực vật Quốc gia sẽ là “gương mặt sinh học” của đất nước, nơi tài nguyên được gìn giữ, giới thiệu và lan tỏa.
Liên kết để thương mại hóa vật liệu giống chịu hạn, chịu mặn
Song song với việc hoàn thiện hệ thống bảo tồn, các viện nghiên cứu trong lĩnh vực giống cây trồng và lâm nghiệp cũng đang hướng mạnh vào mục tiêu thích ứng với biến đổi khí hậu.
Theo TS. Nguyễn Đức Kiên, Giám đốc Viện Nghiên cứu Giống và Công nghệ sinh học lâm nghiệp (Viện Khoa học Lâm nghiệp Việt Nam), biến đổi khí hậu đang làm gia tăng sâu bệnh, hạn hán và xâm nhập mặn tại nhiều vùng rừng trồng, đòi hỏi công tác chọn tạo giống phải đi theo hướng “chống chịu và thích nghi”. Viện đã chọn tạo và công nhận nhiều giống keo, bạch đàn lai có năng suất cao, sinh trưởng ổn định trong điều kiện thời tiết khắc nghiệt. Những tiến bộ như chuyển gen, nhân giống vô tính, nuôi cấy mô và chọn lọc bằng chỉ thị phân tử đang giúp rút ngắn chu kỳ chọn giống, đồng thời nâng cao khả năng thích ứng của các loài cây rừng với hạn, nóng và sâu bệnh.
Chuyên gia đề xuất, cần sớm có chương trình chọn tạo giống lâm nghiệp thích ứng biến đổi khí hậu, lấy hợp tác viện - doanh nghiệp - hộ trồng rừng làm nòng cốt để thương mại hóa vật liệu giống chịu hạn. Ảnh: Kinh tế và dự báo.
Theo TS. Nguyễn Đức Kiên, cần đẩy mạnh hợp tác giữa các viện nghiên cứu, cơ sở sản xuất giống và người trồng rừng để mở rộng khả năng tiếp cận và sử dụng vật liệu giống chịu hạn, chịu mặn trong sản xuất lâm nghiệp. Ông cũng đề xuất đầu tư trung tâm nhân giống vô tính hiện đại, hạ giá thành sản xuất giống và tăng khả năng tiếp cận cho người dân miền núi , khu vực chịu tác động mạnh nhất của thời tiết cực đoan.
Ở lĩnh vực cây trồng nông nghiệp trong bối cảnh biến đổi khí hậu, đại diện Viện Di truyền Nông nghiệp (VAAS) cũng cho rằng, cần xây dựng ngân hàng dữ liệu gen và chỉ thị phân tử quốc gia, phục vụ ứng dụng trí tuệ nhân tạo trong dự báo khả năng thích nghi của cây trồng với khí hậu tương lai, đồng thời lồng ghép chính sách phát triển giống chịu hạn, chịu mặn vào các chương trình quốc gia về an ninh lương thực và thích ứng khí hậu, coi đây là trụ cột của chuyển đổi nông nghiệp bền vững. Hiện, Viện đang làm chủ hàng loạt công nghệ chỉnh sửa gen và đột biến định hướng để phát triển các giống cây chịu hạn, chịu mặn, chịu nhiệt độ cao. Các kỹ thuật nuôi cấy in-vitro (nhân giống trong môi trường nhân tạo vô trùng) và bioreactor (nuôi cấy quy mô công nghiệp) được áp dụng để nhân nhanh và bảo tồn vật liệu di truyền.




























